Sau khi xuất trình giấy tờ, đồng chí cán bộ trực ban nói tôi ngồi ghế chờ. Một lát sau, ông quay ra dẫn theo một người đàn ông mặc bộ quần áo bà ba nâu rồi nói:
- Đây là đồng chí Thạo, cán bộ giao liên xã, sẽ đưa đồng chí vào cơ sở cơm nước nghỉ ngơi. Sáng mai sẽ có người ra đón đồng chí đến gặp lãnh đạo xã.
Theo chân giao liên Thạo, tôi lặng lẽ bước trên con đường đất rải đầy lá dừa xiêm. Sau chừng 20 phút, chúng tôi đã có mặt tại một gia đình cơ sở, nằm sát một bìa rừng, trước mặt có con suối nước chảy róc rách. Vừa bước chân vào nhà, tôi đã có cảm giác căn nhà u tối quá. Hóa ra, chiếc đèn cầy đã cháy gần hết nên không đủ soi sáng cho căn phòng. Chủ nhà là một ông già người Nam bộ, ngồi lặng lẽ hút thuốc lá, nhả khói lơ đãng. Nhận ra cậu giao liên quen thuộc, ông lên tiếng:
- Chú Thạo, có khách hay sao đấy?
- Vâng thưa bác! Đây là khách của xã, nhờ bác lo cho đồng chí ấy ăn uống, đêm nay nghỉ lại đây, sáng mai cháu sẽ đến đón đồng chí ấy đi làm việc. - Nói xong anh ta gật đầu chào rồi biến vào màn đêm đen đặc.
Tôi gật đầu chào ông chủ nhà và đưa mắt quan sát căn nhà. Đó là một căn nhà tranh ba gian hai chái,vách đất,mái được lợp bằng lá dừa xiêm thưa thớt khiến tôi tưởng tượng ra cảnh nếu trời đổ mưa thì trong nhà cũng ướt như ngoài sân. Ông chủ nhà sau một hồi xuống bếp đã bê lên một mâm cơm có đĩa cá linh kho, đĩa đậu phộng luộc, bát canh rau tập tàng và bát cà muối xổi. Đang đói, nhìn mâm cơm quá ngon lành, tôi ngấu nghiến ăn liền mấy bát, sau đó tôi ra bàn cùng ông ngồi uống nước. Nói chuyện chừng vài phút, tôi xin phép ông đi ngủ sớm sau một chặng đường dài đi xe đò rồi lại cuốc bộ mệt lử. Trời về khuya, nằm trên chiếc võng dù chật chội muỗi bay vo ve, tôi không tài nào ngủ được. Ngoài kia, gió thổi rít từng cơn hòa cùng tiếng côn trùng kêu u u nghe buồn man mác. Tôi nằm thulu và cố gắng khép mắt để chìm vào giấc ngủ nhưng con mắt chả chịu nghe lời cứ tỉnh thao láo. Tôi đành ngồi dậy, đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài, bất chợt ngửi thấy mùi hương hoa bưởi quen thuộc, phảng phất đâu đây. Một lúc sau, nhờ ánh đèn pháo sáng địch bắn từ xa mà tôi nhận ra phía sau vườn có hai cây bưởi hoa trổ trắng ngần làm tôi thấy nhớ quê nhà da diết. Những thước phim lại hiện về chầm chậm trong ký ức.
Làng Yên Xá quê tôi nằm bên bờ tả ngạn con sông Hoàng, phù sa màu mỡ, ruộng vườn tốt tươi, có cây cầu gỗ trăm năm thi gan cùng tuế nguyệt. Đa phần người dân quê tôi quanh năm làm ruộng và canh tác hoa màu. Sau đó không lâu, ông bà ngoại rồi thầy mẹ tôi lần lượt rủ nhau về miền cát bụi khi tôi mới lên mười lăm tuổi, để lại hai chị em tôi cho dì nuôi dưỡng. Tôi nhớ hồi còn bé,cứ độ tiết xuân tháng Giêng, tôi theo dì ra cánh đồng làng xem nông dân trồng màu,mải mê ngắm nhìn những luống lạc, luống đậu, luống khoai lang non tơ sương mù phủ li ti trên từng cánh lá, ngọn cây. Và kìa, có mấy chú nhện con miệt mài giăng tơ trên những ngọn đậu vương đọng những hạt sương long lanh. Tôi cứ thích thú đứng ngắm từng làn khói bay mờ mờchờn vờn từ những chân ruộng người nông dân đốt cỏ rác, lan tỏa cả một vùng xa tít tắp. Rồi dì kéo tay tôi vào xóm cho tôi được thỏa thuê ngắm nhìn những vườn bưởi hoa nở trắng tinh khôi. Trên cành cao, hai chú chim mỏ chì lông màu nâu sẫm thấy khách lạ liền bay xuống nhảy nhót đón chào. Tôi thích thú quan sát mấy tổ chim nằm vắt vẻo trên những cành bưởi. Thấy tôi đứng ngẩn người quan sát tổ chim, dì tôi nói “loài chim này chịu thương chịu khó lắm,hàng ngày chúng bay đi tha những lá cây, ngọn cỏ về xây tổ ấm. Lá cỏ to chúng bọc lót bên ngoài, lá cỏ nhỏ non mềm chúng trải xuống làm ổ đấy con”. Vào ngày mùa, khi người nông dân chở lúa từ cánh đồng về sân kho hợp tác xã, đàn chim mỏ chì kéo về nhảy nhót kín mặt đường, nhặt những hạt thóc rơi vãi ăn no đến căng bụng.
Quê tôi nhiều thập kỷ qua nổi tiếng gần xa với giống bưởi quý chua rôn rốt đã trở thành thương hiệu. Chẳng vậy mà người dân trong làng, nhà nào cũng trồng vài vạt bưởi sau vườn. Vào dịp giáp Tết cổ truyền, bưởi cho thu hoạch, thương lái kéo đến mua bán tấp nập, tiếng cười nói rộn vui khắp làng trên xóm dưới. Nhà ông bà ngoại tôi cũng có một vườn bưởi rộng hàng trăm mét nằm sát bên chân con núi Lĩnh. Vào mùa xuân, hoa bưởi nở từng búp trắng phau trên cành, tôi háo hức theo sau dì nhặt những chùm hoa bưởi rụng rơi đầy lối đi, còn nguyên cuống, kể cả những núm nụ hoa bé tẹo, thơm nức. Đang đi, dì bỗng dừng lại cúi xuống nhặt những nụ hoa tung lên cao rồi hồn nhiênmỉm cười. Lúc đó tôi có cảm giác dì đẹp như tiên nữ giáng trần xuống mặt đất du xuân ngắm cảnh cùng tôi. Sau này nghĩ lại, kể mà hồi ấy tôi có máy ảnh thì tôi đã bấm cho dì được bao nhiêu ảnh đẹp, có thể làm bìa báo số xuân ấy chứ.
Sau ngày đó, tôi lên tỉnh học cấp ba, còn chị gái tôi học xong đại học, ra trường rồi lấy chồng trên thành phố, để lại dì mòn mỏi nơi quê nhà. Vì vậy, vào dịp cận tết, bao giờ chị em tôi cũng hẹn nhau thu xếp về quê ngoại thăm dì. Nhìn dì già nua dần theo thời gian, tôi thấy lòng ngậm ngùi khi dì cả đời cứ một thân một mình vò võ chẳng người đầu gối tay ấp. Sau này, nghe chị tôi kể lại tôi mới biết, xưa kia dì yêu say đắm một chàng trai trong làng, là mối tình đầu của dì. Hai người yêu nhau được một thời gian thì chú đi bộ đội rồi hy sinh tại mặt trận phía Nam. Từ đó, dì không yêu ai mà ở vậy thờ phụng người đàn ông chưa cưới như thể chồng mình. Đã nhiều lần, chị tôi về quê muốn đón dì lên tỉnh ở hẳn với vợ chồng chị, nhưng dì lấy lý do ở lại còn hương khói ông bà tổ tiên, chăm lo nhà cửa ruộng vườn nên luôn từ chối. Một lần nọ, tôi rủ bạn gái về thăm dì. Tối hôm đó, sau bữa cơm chiều, ngồi bên chiếc chõng tre, dì kể cho hai đứa tôi nghe chuyện tình đầy sóng gió của thầy mẹ tôi:“Thầy cháu xưa kia là tá điền, đi làm thuê cho gia đình ông bà ngoại. Thấy thầy cháu hiền lành chất phác, mẹ cháu đem lòng thương yêu. Ông bà ngoại ban đầu đã một mực phản đối bởi gia đình thầy cháu thuộc diện bần cố nông, không môn đăng hộ đối. Có lần, một nữ tá điền đi ngang qua bờ ao làng, bắt gặp mẹ cháu đang ngồi tâm sự với thầy cháu, ả liền chạy về mách ông bà ngoại. Thế là ông ngoại nổi cơn thịnh nộ sai gia nhân ra trói thầy cháu mang về nhà hỏi tội. Còn mẹ cháu thì ông bà nhốt trong buồng, hàng ngày cho người mang đồ ăn thức uống vào, cấm không được ra ngoài. Cấm đoán mãi, dùng biện pháp cứng không thành, cuối cùng “đất không chịu trời thì trời phải chịu đất”, ông bà đành phải cho thầy mẹ cháu cưới nhau. Tuy mối tình thầy mẹ cháu lúc đầu có rào cản như vậy nhưng kết thúc lại rất có hậu. Thầy cháu về ở rể trong nhà ông bà ngoại, rồi mẹ sinh ra hai chị em cháu cũng chính từ ngôi nhà này. Ông bà ngoại sau đó lại yêu quý con rể khi thấy thầy cháu chịu thương chịu khó, lễ phép với cha mẹ và thương yêu vợ con. Tiếc rằng, thầy mẹ cháu ra đi sớm quá...Dì vừa nói vừa đưa tay ngăn những giọt nước mắt đang lăn khẽ trên gương mặt vẫn còn phảng phất nét đẹp từ thời con gái.
Sáng sớm hôm sau, trước lúc tôi và bạn gái tạm biệt dì để trở về thành phố, dì còn dẫn hai đứa ra thăm cánh đồng làng, thăm vườn bưởi rộng lớn nhà ông bà ngoại. Dì đã hái mấy quả bưởi ngon nhất đưa cho bạn gái tôi mang về làm quà cho gia đình. Chiều hôm trước, dì còn đưa chúng tôi ra thăm ngôi chùa cổ ở đầu làng, gặp vị sư trụ trì chùa Yên Xá cầu phúc cho hai đứa sớm nên duyên vợ chồng. Chúng tôi cứ ngắm mãi không chán ngôi chùa cổ kính có sân vườn đẹp như chốn tiên cảnh. Trong chùa trồng rất nhiều cây như vạn tuế, đinh lăng, trúc quân tử, mai,đào... Chùa còn trồng đủ các loại cây dược liệu quý làm thuốc như hà thủ ô, dành dành, bướm trắng, chân chim… Sát tường rào là những hàng bưởi cổ thụ, trên cành hoa nở trắng ngần, rơi rụng kín cả lối đi. Rồi dì còn dẫn chúng tôi ra bờ đê con sông Hoàng, nơi có những cánh buồm nâu no gió, ngồi ngắm hoàng hôn buông trong bóng chiều chạng vạng.
Tôi bồi hồi nhớ lại ngày còn đi học ở quê, tôi thường rủ lũ bạn trong làng ra bờ đê đổ nước bắt dế mèn, thi thả diều cho đến lúc hoàng hôn chìm khuất sau dãy núi xanh lam cả lũ mới í ới gọi nhau về. Nhiều lần mải chơi mà bỏ bê học hành, tôi bị dì mắng vì can tội rủ rê lũ học sinh thôn Đông sang sân đình thôn Yên Xá thi đánh cù. Chẳng là ngày ấy, trẻ con trong làng chẳng có thú chơi nào hơn ngoài mấy trò chơi cù, đánh khăng, chơi ô ăn quan, nhảy dây, kéo co, bịt mắt bắt dê…Đánh cù là thú chơi mà đám học sinh thích nhất vì nó có thể chơi ở bất kỳ ở đâu, miễn có khoảnh sân hẹp hay mô đất phẳng. Mỗi giờ ra chơi, dăm ba đứa lại tụm năm tụm ba chơi cù ở một góc sân rồi tan học lũ nhỏ chúng tôi lại kéo nhau qua sân đình chơi cho đến tối mịt mới lục tục về. Hai bên quy định, bên nào thua phải nước chè và kẹo đãi bên thắng. Đó là thứ kẹo dồi, kẹo lạc tẩm bột được mua của mấy bà ngồi bánở góc sân đình. Biết tôi có biệt tài chơi cù, lũ trẻ rất ngại đối đầu với tôi vì chơi ván nào tôi đều thắng ván đó mà luật chơi lại còn quy định người thắng có quyền được lấy luôn con cù của đối phương. Hội thôn Đông mỗi đứa thường thủ trong túi ít nhất vài ba con cù, sau mỗi đợt chơi, tôi thường thu về gần hết số cù trong túi bọn chúng. Thấy tôi ham chơi quá, dì khép chặt kỷ luật để tôi phải chuyên tâm vào học hành. Tôi đành phải lén lút tranh thủ chơi những lúc dì bận làm lụng không để ý. Một lần đi học về, tôi ném vội cái cặp trên ghế để xuống bếp ăn cơm với cái bụng đang réo sôi ùng ục. Tôi đâu biết khi đó trên nhà dì đã mở cặp tôi để kiểm tra, thấy trong đó có mấy con cù, dì giận lắm, đem ném hết xuống ao bèo trước nhà. Bình thường dì rất hiền lành và ít nói, nhưng khi tôi không chịu học hành nghiêm túc thì dì cũng quản lý rất ghê. Ngày chị tôi sinh cháu, dì không quản ngại đường xa, bỏ hết công việc ở quê lên thành phố giúp chị tôi hàng tháng trời. Một lần khác khi dì lên chơi, chị tôi gọi điện cho tôi đến ăn cơm cùng dì cho vui. Hôm đó, tôi đến rất sớm, cùng chị làm cơm đãi dì. Vừa lên tới nơi, ngồi chưa ấm chỗ, bỗng dì hoảng hốt nói với hai chị em:
- Thôi chết, mấy mẹt vừng dì phơi ngoài sân không khéo mưa ướt hỏng hết. Mà lúc đi dì quên chưa cho lũ gà và chó ăn, không khéo chúng chết đói mất. Thôi để dì vào chơi với thằng cu Tũn ít phút rồi dì về luôn. - Nói rồi, dì đi vào buồng, một lúc sau quay ra tay cầm nón, vai khoác túi chào hai chị em để về.
Chị tôi cố giữ dì ở lại ăn cơm, nhưng dì nhất quyết đòi về cho bằng được. Chị tôi đành bảo tôi đèo dì ra bến xe. Vừa ngồi lên xe,chợt nhớ ra điều gì, dì lại quay vào nhà lôi từ trong túi ra cái lọ nhựa đựng đầy hoa bưởi nhỏ dúi vào tay chị tôi, bảo biếu ông thông gia ướp trà tiếp khách.
Sau khi vào bến, trước lúc lên xe, dì gọi tôi lại dúi vào tay tôi một xấp tiền rồi nói:
- Dì không có nhiều để cho cháu. Đây là số tiền bấy lâu nay dì dành dụm được từ tiền bán bưởi, cháu cầm lấy lo cưới vợ, có cháu sớm cho dì bế bồng.
Tôi gạt đi, bảo dì giữ lại số tiền đó sau này dưỡng già, nhưng dì nói:“Cháu không cầm là phụ lòng dì đó”. Tôi đành nhận tiền dì cho mà lòng xúc động nghẹn ngào. Sau này, khi dì không còn trên cõi đời, mỗi khi nghĩ đến dì, nước mắt tôi lại tuôn rơi vì thương nhớ.
Ngày ấy, cuộc chiến tranh chống Mỹ bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, tôi bỏ dở hai năm đại học, giã từ gia đình và bạn gái lên đường vào Nam chiến đấu. Những năm cùng đồng đội bám chốt trên nhiều trận địa, lúc vượt sông Vàm Cỏ dưới làn mưa bom bão đạn, lúc cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích nằm vùng bám trụ kiên cường chiến đấu, tôi vẫn không phút nào nguôi quên làng quê, nơi ôm chứa cả tuổi thơ và tuổi trẻ của tôi với bao nhiêu kỷ niệm.
Đêm sâu lắng, ngoài kia gió mơn man thổi vào từng cơn mát rượi, tôi trở vào võng nằm xuống, dần thiu thiu chìm vào giấc ngủ với những hình ảnh bình yên ở quê nhà, nơi có dì tôi cùng vườn bưởi nở đầy hoa. Dì như chùm hoa bưởi làng Yên Xá trinh trắng tinh khôi luôn giữ trọn tình yêu thủy chung với người lính năm xưa đã khuất. Ngoài kia, mưa xuân lất phất bay quyện cùng hương bưởi thơm tỏa ngọt dịu. Tôi thầm nhủ, nào ngủ một giấc no say để lấy sức ngày mai còn lên đường. Phía trước, trận chiến đang chờ tôi!
---------------------
Trong tập truyện "Bão đời" của Phạm Công Thắng, NXB Văn học, 2024