Cầu bắc qua nhánh sông nhỏ, nối liền nhà máy với khu dân cư xóm Đồng Xe. Dưới cầu là một ống bơm to cỡ hai vòng tay ôm, chạy dài từ trạm bơm nước ở khu vực miếu Ba Cô ra toàn bộ khu nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ. Đó là nguồn nước vừa để sản xuất vừa cung cấp cho các hộ dân cư trong khu vực sinh hoạt. Dân ở đây quen gọi là Cầu Bơm.
Hồi bé, bọn trẻ chúng tôi không mấy khi đi trên mặt cầu mà nghịch ngợm chui xuống gầm, chân trần chạy trên ống bơm để tìm cảm giác mát lạnh của những trưa hè oi ả. Chơi chán lại rủ nhau xuống sông tập bơi. Con sông Cầu khúc này thật trong và đẹp. Dòng sông xanh mát, những gợn sóng được ánh mặt trời chiếu xuống trở thành những tia nắng lấp lánh, nhảy lao xao trên mặt nước. Ngã ba sông là nơi nối từ con sông nhỏ chảy ra, tạo nên một khúc hai dòng chảy. Ở giữa, là Bãi Bồi đầy sỏi đá được phủ xanh bằng những cây đào nước. Chúng tôi thường chọn lấy một viên đá cuội to đẹp mang về để nén cà, muối dưa…
Bến Nứa là điểm hẹn của chúng tôi. Gọi là Bến Nứa vì đây là nơi tập kết của những bè nứa từ trên mạn ngược, được người dân khai thác thả xuôi dòng về, nhập cho nhà máy để làm nguyên liệu sản xuất giấy. Mỗi buổi chiều, khi ánh mặt trời vẫn còn ngồi vắt vẻo trên ngọn tre cạnh bờ sông là lũ trẻ con xóm tôi đã tụ tập đông đủ ở đấy rồi. Trong nhóm, tôi là đứa lớn tuổi nhất, lại là người hay phải phân xử mỗi khi có cuộc tranh luận hay cãi vã, nên thường được bọn trẻ phong làm Chị Đại. Phần nữa là vì chúng nó chơi với thằng Hiền, là thằng em thân thiết của tôi.
Cũng cần nói riêng về thằng Hiền một chút...
Chả nhớ nhà tôi và nhà Hiền ở sát vách nhau từ khi nào. Nhưng từ bé đến giờ nó luôn theo sát tôi như hình với bóng. Tính nó nhát và hiền đúng như cái tên của nó. Tôi nghe mẹ kể: "Thằng Hiền sinh ra không được biết mặt bố. Khi cô Mai có chửa nó được sáu tháng thì chú Phương, chồng cô bị chết vì bom Mỹ". Tôi còn nhớ, cứ mỗi lần thằng Hiền ốm là đêm đêm mẹ nó lại khóc ời ời gọi chồng. Tiếng gào khóc như cào xé lòng người, ám ảnh mãi trong tâm trí của tuổi thơ tôi.
Khu tập thể xóm tôi có năm hộ, toàn là phụ nữ đơn thân. Người chồng chết, người ly hôn, người quá lứa lỡ thì kiếm mụn con cho đỡ cô đơn. Vì thế xóm có tên là “Xóm Không Chồng”. Nhà tôi và nhà Hiền có hoàn cảnh giống nhau, chỉ một mẹ một con nên chúng tôi coi nhau như chị em ruột. Hàng ngày khi các bà mẹ đi làm thì chỉ còn tôi và nó tha thẩn bên nhau. Hồi bé, có lần Hiền nì nèo bắt tôi dắt ra tận xóm ngoài bằng được, mải chơi quên giờ về làm mẹ nó hớt hơ, hớt hải chạy đi tìm. Khi nhìn thấy hai chị em đầu trần, mặt đỏ gay đi giữa nắng trưa tháng sáu, mẹ nó sấn đến quát thẳng vào mặt tôi "Mày dẫn con tao đi đâu, hả? Hôm nay về nó bị làm sao thì mày biết tay tao". Bị mắng oan nhưng tôi không trách mẹ nó vì biết hồi bé Hiền hay ốm, cô ấy thương con nên thường hay có thái độ hấp hoảng như vậy.
Lớn hơn một chút, hôm nào chị em tôi cũng cùng lũ bạn ra bến sông. Lúc đầu Hiền nhát lắm, chẳng dám tập bơi. Nhưng có lẽ cho chuồn chuồn cắn rốn nhiều lần và ôm mấy cây chuối, hai chân đập loạn xạ, dần dần quen với sông nước nên ít lâu sau cũng biết bơi. Ngoài chuyện tập bơi thì con sông còn là nguồn cung cấp thức ăn cho các gia đình chúng tôi. Những cái bẫy cá bống được chúng tôi khéo léo đặt trên sông. Rồi trong khi chờ đợi những con cá ham mồi, chúng tôi thường tranh thủ lội sang bờ bên xóm Gò Chè, nơi có cây rong nước mọc nhiều nhất để bắt trùng trục hoặc mò ốc, hến… Mỗi lần ra sông là đứa nào cũng đầy rổ lớn, rổ bé mang về nhà. Riêng thằng Hiền chả bao giờ bắt được con gì. Nhưng đến bữa là mẹ con nó thế nào cũng có một bát canh trùng trục nấu chua bằng lá sấu hoặc những đĩa cá bống vàng ươm do tôi bê sang.
Ngoài nguồn thức ăn vô tận, con sông còn cung cấp cho dân hai bên bờ vô số củi đun. Vào những mùa lũ, khi nước ở thượng nguồn đổ về chở theo bao nhiêu cây cối, củi khô là dân xóm tôi lại kéo nhau ra đứng kín bờ sông. Ngày vớt củi. Đêm vẫn thắp đèn để vớt củi. Rộn rịp như ngày mùa vậy. Khi nước bắt đầu rút, chính là lúc lũ trẻ chúng tôi ra sông mót những cành củi bị chìm, mắc kẹt ngoài Bãi Nổi, Thường thì những cành củi ấy đun thích nhất, vừa đượm vừa chắc chứ không cháy lèo tèo như lau, nứa.
Hôm ấy, sau những ngày lũ, bọn trẻ xóm tôi ra sông mót củi. Khi qua khỏi Bãi Nổi, tôi tay cắp, tay lôi một cành to. Đến giữa đoạn nước chảy xiết tôi vô ý giẵm phải hòn đá, trượt chân ngã và bị dòng nước cuốn đi một đoạn khá xa. Trong cơn hoảng sợ tôi vẫn nghe thấy tiếng lũ con trai đứng trên bờ kêu la, hò hét nhưng không đứa nào dám xuống sông cứu tôi. Cố nhìn lên, tôi thấy thằng Hìền hớt hải chạy dọc bờ sông theo hướng tôi bị dòng nước xiết cuốn. Nhưng có lẽ không tự tin nên nó cũng không dám lao xuống sông. Khi uống mấy ngụm nước và bắt đầu “giã gạo” thì tôi bỗng thấy một bàn tay bấu vào vai. Như "vớ được cọc", tôi vội túm chặt lấy bàn tay ấy, chới với trôi theo dòng nước. Tôi uống thêm mấy ngụm nước nữa, sặc sụa, mặt mũi tối sầm và có cảm giác đang chìm dần, Cái bờ vai của người cứu tôi có lẽ quá nhỏ bé nên không thể thắng nổi dòng nước lũ quái ác. Nhưng thật bất ngờ, vài giây sau bỗng người tôi nổi lên mặt nước. Rồi tiếp theo là cái mặt tái mét của thằng Hiền ở ngay bên cạnh. Hiển gượng nói bằng giọng hổn hển:
- May quá… có một cành cây lập lờ dưới mặt nước, em túm được. Chị có sao không? Chị cứ bám chặt vào cành cây này để em đưa chị vào bờ.
Vậy là thoát chết trong gang tấc.
Vài phút sau chúng tôi lên được bờ. Tôi nằm vật xuống bãi cỏ. Dù đã cạn kiệt sức lực, tôi vẫn cố đưa ánh mắt yếu ớt nhìn sang bên cạnh, thấy thằng Hiền cũng đang nằm thở dốc tôi mới an lòng. Sau khi hai chị em hoàn hồn, tôi ôm nó vào lòng vừa khóc vừa nói:
- Sao em liều thế? Nhỡ đâu cả hai chị em mình cùng không về được thì sao?
- Lúc đầu em cũng rất sợ, nhưng khi nhìn thấy chị “giã gạo” thì em chẳng nghĩ gì nữa, cứ thế lao xuống để cứu chị… hì hì…
Nói xong nó lại cười, vẫn nụ cười khoe chiếc răng khấp khểnh. Tôi nhìn nó với ánh mắt trìu mến, đầy vẻ biết ơn.
Sau trận đuối nước suýt chết ấy tôi không còn dám ra sông nữa. Đêm nào ngủ cũng không yên bởi những cơn ác mộng. Hai từ “ra sông” không còn làm tôi háo hức như trước. Nghĩ dại nếu hôm đó cả hai chị em tôi không may bị đuối nước thì mẹ tôi và mẹ thằng Hiền sẽ sống ra sao? Càng nghĩ tôi càng thấy sợ hãi.
Những lúc ngồi một mình, tôi thường tự hỏi, sao một thằng bé mới có mười tuổi đầu, vốn dĩ hiền lành nhút nhát mà lại dám lao mình xuống dòng nước chảy xiết để cứu tôi? Và tôi cứ mơ hồ ngẫm nghĩ, phải chăng lúc chị em tôi đang chới với giữa dòng nước thì linh hồn chú Phương, bố Hiền ở trên trời cao đã hiện về để hoá thành cành cây giúp chị em tôi thoát nạn...
Nhiều năm sau tôi đi làm dâu ở tận Cà Mau nên chị em không có mấy dịp gặp nhau nữa.
Lần trở về quê ngoại năm ấy, tôi nghe tin Hiền đã nhập ngũ. Rất mừng cho em. Thế là từ một cậu bé yếu đuối nhút nhát ngày xưa, em đã trở thành một anh lính Cụ Hồ hiên ngang, dũng cảm. Tôi thầm chúc em có nhiều thành công trong cuộc đời.
Về quê lần này, nỗi sợ đuối nước không còn ám ảnh nhiều nên tôi mới dám trở lại bến sông xưa, mong thỏa nỗi nhớ da diết mà bao năm qua tôi đã không đủ can đảm đối diện với nó.
Ra đến bến cũ, nhìn con sông mà tôi không khỏi bàng hoàng, thảng thốt. Trước mắt tôi, dòng sông đã bị biến dạng bởi nạn khai thác cát, sỏi trái phép bằng tàu cuốc. Bến sông xưa của tôi đấy ư? Méo mó, hoang tàn. Đâu rồi Bãi Nổi ngày xưa, nơi chúng tôi thường rúc mình trong những búi đào nước chơi trò đánh trận giả? Đâu rồi những bầy cá bống bơi lội tung tăng trong dòng nước xanh tận đáy, những con trùng trục, ốc, hến núp mình dưới những bụi rong nước tươi non trong nắng chiều đỏ ối. Còn đâu vẻ đẹp hiền hoà, thơ mộng của những con sóng lấp lánh xôn xao mỗi khi ánh mặt trời rọi chiếu?…
Nhìn những chiếc gầu thép như những bàn tay quỷ khổng lồ vung lên “moi gan móc ruột” lòng sông, biến khúc sông uốn lượn mộng mơ thành những quầng nước đục ngầu mà đau như chính ruột gan mình đang bị cào cấu. Tôi đã khóc nấc lên. Cảm giác như ký ức tuổi thơ của tôi đang ròng ròng chảy máu.
Nhìn dòng sông, tôi tưởng nhớ tới hình bóng của Hiền, những ký ức năm xưa ùa về dữ dội… Tôi như nhìn thấy nụ cười của em thấp thoáng dưới mặt nước, vẫn chiếc răng khấp khểnh và đôi mắt trong veo biết nói.
Tôi chia tay với dòng sông trong một nỗi buồn khôn tả.
Mấy năm sau, Từ Cà Mau, tôi nhận được tin sét đánh: Hiền đã hi sinh trên sông Cầu trong khi cứu hộ. Mùa lũ ấy, hàng trăm ngôi nhà chìm trong lũ cuốn. Sau khi vận hành ca nô, xuồng máy, em và đồng đội đã cứu được mấy chục người dân an toàn. Nhưng chiều hôm ấy khi em lao mình xuống dòng nước cứu một cháu bé. Đưa được cháu lên xuồng thì em bị dòng nước xoáy cuốn đi. Em đã hy sinh khi vừa tròn 28 tuổi. Cả tỉnh, cả nước ca ngợi em, được Nhà nước tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang, một danh hiệu vô cùng xứng đáng.
* * *
Tôi trở lại sông quê trong một nỗi buồn u ám. Sông vẫn con đây mà em ở đâu? Tôi khom mình bên dòng nước, đưa tay muốn vớt những ánh bạc lung linh mà chợt giật mình thảng thốt. Hình như đâu đây, hình bóng em tôi vẫn thấp thoáng dưới mặt nước, vẫn nụ cười hiền lành để lộ chiếc răng khấp khểnh và đôi mắt trong veo, lấp lánh dưới nắng chiều... Hiền ơi, chị biết, chính những kẻ đang hàng ngày hàng đêm moi gan móc ruột dòng sông xưa của chúng mình đã giết chết em. Ngày xưa, hồn chú Phương và hồn sông đã cứu cả hai chị em mình thoát chết. Nhưng bây giờ…
Tôi lội sang Bãi Bồi, cố gom những cành đào nước còn sót lại để kết thành một vòng hoa rồi thả xuống sông, mong linh hồn em siêu thoát. Tôi thì thầm xin sông hãy ôm ấp em vào lòng và sưởi ấm cho em bớt lạnh, để giữa làn nước trong xanh, lại được thấy đâu đó, thấp thoáng ánh mắt và nụ cười thương mến của em tôi.
Trái tim người lính