Tôi may mắn đã từng đến công tác ở vùng này và phần nào thấu hiểu những nỗi khó khăn vất vã của con người trên vùng đất nắng gió này.
Những làn da cháy sạm vì cái nắng hắt vào đá phả ra sức nóng kinh khủng, những khe nước mùa mưa thì nước đổ dồn hung dữ như những con thuồng luồng muốn nuốt chửng tất cả vào bụng nó, còn mùa khô thì cạn kiệt tận đáy, người dân kiếm từng giọt nuwowcs rủ ra từ rễ cây rừng để uống, nhiều ngày liền khoing có nước để tắm. Ở đây chỉ thấy rõ hai mùa là mùa khô và mùa mưa chứ không thấy bốn mùa như phía đồng bằng. Mùa mưa từ tháng tám đến tháng mười hai còn lại là mùa khô, gió Lào thổi phờ phạc cả cây rừng, hồi đầu mới lên đây công tác tôi cứ nghĩ mình không sống nổi vì nắng thốc vào mặt mũi làm đầu choáng váng tưởng như chực chờ bóp nghẹt ngực mình. Đêm đến lạnh đến thấu xương vì hơi lạnh từ núi đá phả ra, giữa đêm phải đốt củi để sưởi ấm.
Vậy mà người dân nơi đây vẫn hiên ngang chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Những nương rẫy vẫn xanh màu ngô lúa.
Từ khi nhà nước chưa công nhận vườn Quốc Gia Phong Nha Kẻ Bàng là quần thể sinh học cần được bảo tồn gìn giữ thì người dân săn bắn hái lượm như những thổ dân, ăn những thứ kiếm được, trồng lúa rẫy, đời sống tự cung tự túc rất kham khổ; sau này người kinh lên buôn bán giao thương thì dân bản mới dùng đến những hàng hoá từ miền xuôi mang lên, hàng đêm những ngôi nhà sàn chụm đầu vào nhau trong bóng tối, ánh sáng hắt lên từ những bếp lữa, càng ngày ánh sáng của Đảng đã soi rọi từng ngôi nhà và ánh điện đã về với các bản làng, nhưng dùng điện bằng năng lượng mặt trời nên những ngày mưa không có điện.
Đặc biệt khi vườn quốc gia được UNESCO, công nhận là di sản thiên nhiên thế giới thì vùng miền núi xã Thượng Trạch thuộc vùng đêm của vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, bà con không còn săn bắt động vật quý hiếm và khai thác cây rừng bừa bãi như trước đây. Nhà nước hổ trợ làm nhà cho dân bản, bộ đội xây những chốt đồn kiên cố, trạm kiểm lâm xây dựng khang trang, các lớp học trên các bản làng được đầu tư xây dựng, thầy cô giáo tăng cường dạy chữ trồng người trên các bản làng. Cuộc sống từng ngày thay da đổi thịt và thay đổi trong từng nếp nghĩ. Năm 2012 có một thầy giáo là người bản xứ ở đây tốt nghiệp về dạy học ở trường nội trú Bố Trạch( trường này đóng tại xã Thượng Trạch dạy học sinh cấp 2 từ18 điểm bản trong xã Thượng Trạch về học ở đây).
Vùng đất này có một đặc điểm là người dân sống rất hoà đồng với thiên nhiên, các hoạt động về cúng tế thần linh trời đất rất khác biệt, có một vài người đọc thần chú và thổi lành các bệnh thông thường rất hay, ít khi đi bệnh viện, hủ tục còn lạc hậu nhưng có những đều mà bản thân tôi không tin cũng chưa thể lý giải được. Có lần thầy giáo đánh bóng chuyền sơ ý ngã bong gân, bàn chân sưng tấy không nhắc nổi để đi, vậy mà ông già làng ở bản ngậm rượu thổi vào chân hai lần tự nhiên đi lại được và không còn thấy đau, ông ấy còn thổi cầm máu có người thái rau chẳng may bị đứt tay máu chảy thành dòng vậy mà ông vừa lẩm bẩm vừa thổi là chổ đứt liền lại, máu ngừng chảy chuyện có thật chứ không bịa. Có nhiều điều Huyền bí riêng có của tộc người này mà không tất cả mọi người đều làm được, thổi như vậy cũng mang tính gia truyền, chỉ trong dòng họ mới được truyền lại từ đời này qua đời khác.
Mùa Xuân có lễ hội đập trống Ma-Coong, lễ hội mừng mùa trăng mới đầu năm âm lịch tổ chức vào ngày 16 tháng giêng. Trong những ngày từ 14 tất cả đồng bào từ mười tám bản trong xã Thượng Trạch, vượt những con suối ngoằn ngèo vượt những con đường đá cheo leo khúc khuỷu để về trung tâm bản Cà Ròng 1 (bản này được hình thành phát triển đầu tiên của vùng đất này). Họ chung tay làm trồng , chuẩn bị mâm cổ cúng thần linh cầu mưa thuận gió hoà để sản xuất chăn nuôi nhiều thuận lợi, lúa đầy rẫy, gà lợn đầy vườn.
Sau khi lập đàn làm lễ cúng tế giàng ( theo quan niệm của người Ma-Coong, giàng là trời, vị thần linh tối cao, ban xuống cho bản làng cuộc sống bình yên). Già làng khấn bằng tiếng dân tộc của đồng bào Ma-Coong, ( đồng bào Ma-Coong, giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ của riêng mình, khi nói chuyện với người kinh thì nói tiếng phổ thông).
Cúng tế xong các thiếu nữ múa điệu múa truyền thống của dân tộc mình đi vòng quanh trống, già làng cử ra những chàng trai khỏe mạnh nhất cầm những cái dùi trống bằng gỗ hoặc bằng dây mây đã chuẩn bị sẵn để đánh vào trống, đồng bào Ma-Coong quan niệm nếu năm nào trống vỡ thì năm đó được mùa và cuộc sống thuận lợi trời cho mưa thuận gió hoà ít dịch bệnh, điệu múa kết thúc cũng là lúc tiếng trống vang vọng khắp núi rừng vừa đánh vào mặt trống vừa hô: (Roã lữ giàng ơi) câu này người Ma-Coong, có nghĩa là sướng lắm trời ơi.
Bên những ché rượu cần ủ bằng lá rừng, một đặc sản riêng có của vùng đất này, những trai thanh nữ tú liếc mắt đưa tình có ý tứ riêng tư, khi ngà ngà ánh mắt họ quyến luyến nắm tay tìm chỗ vắng tự tình thâu đêm. Từ lễ hội đập trống Ma-Coong, gái trai hẹn hò trong mùa yêu và nhiều đôi thành vợ thành chồng sinh con cháu và xây dựng bản làng.
Lễ hội đập trống Ma-Công đã trở thành nét đẹp văn hoá trong cộng đồng làng bản của người Ma-Công và được nhà nước công nhận là di sản văn hoá phi vật thể cấp quốc gia vào mùa đập trống tháng giêng năm 2019.