Kỳ 46.
Kháng chiến toàn dân là chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí và ở bất kỳ nơi nào chúng tới. Kháng chiến toàn dân là xuất phát từ so sánh lực lượng giữa ta và Pháp. Quân viễn chinh Pháp mạnh, trang bị hiện đại nên ta phải huy động toàn dân đánh giặc. Như vậy Pháp không chỉ đương đầu với lực lượng vũ trang của ta mà phải đương đầu với toàn thể dân tộc Việt Nam và Pháp nhất định thất bại.
Cũng do tương quan so sánh lực lượng mà ta phải kháng chiến lâu dài để phá tan âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của địch, buộc địch phải đánh lâu dài và như vậy Pháp ngày càng khó khăn, suy yếu, ta càng đánh càng mạnh. Khi đối sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta thì ta phản công tiêu diệt địch. Đánh lâu dài không có nghĩa là kéo dài chiến tranh vô hạn độ mà khi ta đã mạnh, thời cơ đến ta phải tranh thủ kết thúc chiến tranh. Kháng chiến toàn dân bao hàm cả kháng chiến toàn diện, đánh địch trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị, ngoại giao, văn hoá, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, tấn công địch trên khắp các mặt trận để chiến thắng quân thù. Kháng chiến là sự nghiệp của nhân dân, nhân dân quyết định vận mệnh của mình nên phải dựa vào sức mình là chính. Dựa vào sức mình là chính có nghĩa là giữ độc lập về đường lối chính trị, phát triển lực lượng kháng chiến của ta về mọi mặt nhưng coi trọng sự giúp đỡ từ bên ngoài .
Đường lối kháng chiến của Đảng là sự áp dụng sáng tạo lý luận cách mạng và lý luận quân sự Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, là kế thừa truyền thống quân sự của ông cha ta trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời kỳ trung đại, là áp dụng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh trong thực tiễn. Đường lối kháng chiến là ngọn đuốc soi đường cho nhân dân ta tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ bằng hình thức đấu tranh vũ trang, đánh bại cuộc xâm lược của thực dân Pháp .
Để lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Đảng phải ra hoạt động công khai. Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm 1951 tại Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang để đáp ứng những nhu cầu của cuộc kháng chiến. Đại hội II đã quyết định ba nước Việt Nam, Lào, Campu chia thành lập mỗi nước một Đảng riêng và có chương trình riêng phù hợp với điềù kiện phát triển của từng dân tộc. Đảng bộ Việt Nam của Đảng cộng sản Đông Dương tách ra lập một Đảng riêng, lấy tên là Đảng lao động Việt Nam và ra hoạt động công khai. Đại hội thông qua văn kiện quan trọng “Chính cương Đảng lao động Việt Nam”, xác định đối tượng chính của cách mạng Việt Nam là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, bọn phong kiến phản động. Kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam là bọn đế quốc xâm lược .
Về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam “Chính cương Đảng lao động Việt Nam”: Khẳng định đánh đuổi đế quốc xâm lược” giành độc lập dân tộc” xoá bỏ tàn tích phong kiến, thực hiện người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tạo cơ sở cho việc xây dựng chủ nghĩa gowin99 sau này. Các nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng nhiệm vụ chính trứơc mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. Động lực của cách mạng là công nhân và nông dân, lực lượng cách mạng là tiểu tư sản, tư sản dân tộc, nhân sĩ yêu nước tiến bộ. Nền tảng của khối đoàn kết dân tộc là liên minh công nông. Lãnh đạo cách mạng là Đảng cộng sản. Cách mạng Việt Nam vẫn là cách mạng dân tộc dân chủ, cách mạng tư sản kiểu mới vì cách mạng là do giai cấp vô sản lãnh đạo, kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ thì tiến lên làm cách mạng gowin99 chủ nghĩa. Đại hội II là một sự kiện chính trị trọng đại, đánh dấu bước trưởng thành của Đảng. Đảng ra hoạt động công khai với cương lĩnh chính trị đúng đắn. Đại hội Đảng đã thúc đẩy kháng chiến đi đến thắng lợi .
Sau Đại hội II, Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng phát triển thực lực cho cuộc kháng chiến, củng cố chính quyền, củng cố mặt trận đoàn kết dân tộc, tức là củng cố hệ thống chính trị, xây dựng nền kinh tế, phát triển nền văn hoá, giáo dục kháng chiến. Tháng 7-1948 Hội nghị văn hoá toàn quốc được triệu tập. Tổng bí thư Trường Chinh trình bày bản báo cáo “Chủ nghĩa Mác với vấn đề văn hoá Việt Nam”, vạch rõ phương châm xây dựng một nền văn hoá mới. Năm 1950, Đảng đề ra chính sách cải cách giáo dục, phát triển bình dân học vụ. Thực hiện cải cách ruộng đất, từng bước đem lại quyền lợi cho giai cấp nông dân để tăng cường thực lực kháng chiến. Từ năm 1947 đến đầu năm 1953, ta buộc địa chủ thực hiện giảm tô cho nông dân 25%, tịch thu ruộng đất của thực dân, của Việt gian chia cho nông dân không có ruộng cày cấy. Năm 1953 Hội nghị lần V của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Hội nghị toàn quốc tháng 11 năm 1953 quyết định thực hiện cải cách ruộng đất ở vùng tự do, xoá bỏ quyền sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân, bồi dưỡng sức dân, đẩy mạnh kháng chiến. Kết quả lực lượng tinh thần vật chất của hàng chục triêu nhân dân được tăng cường, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, vào thắng lợi của chiến cuộc đông xuân năm 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Để lãnh đạo cuộc kháng chiến thắng lợi cần phải củng cố Đảng vững mạnh. Từ năm 1948 đến năm 1949, Đảng kết nạp thêm 50 vạn đảng viên mới. Đến đầu năm 1951 Đảng có 46 vạn đảng viên, các chi bộ được củng cố ở hầu hết các xí nghiệp, cơ quan, làng xã và các lực lượng vũ trang làm nòng cốt lãnh đạo kháng chiến. Ta đã ra sức xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho cuộc chiến tranh nhân dân. Thời gian này ta có 33 vạn quân chính qui (bộ đội chủ lực), hàng triệu bộ đội địa phương, dân quân du kích. Theo biên chế quân chính qui, ta có 6 Đại đoàn bộ binh, một Đại đoàn công binh, nhiều Trung đoàn độc lập. Sự lớn mạnh trưởng thành của bộ đội chủ lực, chính qui đáp ứng được đòi hỏi của cuộc kháng chiến là phải đánh tiêu diệt địch để đè bẹp ý chí xâm lược của kẻ thù, để kết thúc chiến tranh. Còn bộ đội địa phương, dân quân du kịch là lực lựơng tiêu hao quân địch, hỗ trợ cho quân chủ lực. Tóm lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân xây dựng, phát triển thực lực kháng chiến về mọi mặt kinh tế, văn hoá, quân sự, chính trị, triển khai sức mạnh chiến tranh nhân dân .
3-Những chiến thắng về quân sự trên chiến trường :
-Chiến thắng Việt Bắc thu -đông 1947: Nhằm kết thúc chiến tranh nhanh chóng, mùa đông 1947 thực dân Pháp mở chiến dịch Việt Bắc nhằm phá tan chiến khu, tiêu diệt đầu não lãnh đạo kháng chiến của ta, mở rộng vùng chiếm đóng, tăng cường kiểm soát biên giới Việt-Trung để bao vây cuộc kháng chiến của ta, chống phá cách mạng Trung Quốc .
Thực hiện chiến dịch, ngày 7-10-1947, Binh đoàn đổ bộ đường không do Xô va nhắc chỉ huy nhảy dù xuống Chợ Đồn, Chợ Mới (Bắc Kạn ) và thị xã Cao Bằng để tập kịch cơ quan đầu não của ta. Phối hợp với Binh đoàn đổ bộ đường không có Binh đoàn bộ binh do Bôphorê chỉ huy hành quân từ Lạng Sơn theo đường số 4 lên Cao Bằng, Bắc Kạn tấn công Việt- Bắc. Trong khi đó Binh đoàn bộ binh lính thuỷ đánh bộ do Commuynan chỉ huy từ Hà Nội theo sông Hồng, sông Lô tiến lên Tuyên Quang, Chiêm Hoá tấn công Việt Bắc ở phía tây. Một cánh quân Pháp khác đánh chiếm Phủ Lạng Thương rồi thọc vào khu Tràng Xá, Đình Cả để phối hợp.
Trên tất cả các hướng tấn công của địch, quân dân ta đã chặn đánh dữ dôi, quyết liệt. Trung đoàn vệ quốc quân Cao Bằng đã bắn rơi máy bay chỉ huy của địch, tiêu diệt tên quan năm (Đại tá) Lămbe, Tổng tham mưu phó Đông Dương và toàn bộ Bộ tham mưu chiến dịch. Ta tiêu diệt 250 tên địch ở Bông Lau (30-10-1947). Ngày 20-10-1947 ta tiêu diệt 5 ca nô, một tàu chiến. Ngày 10 -11-1947 tại Khe Lau ta diệt 5 tàu chiến, 400 tên địch. Ngày 15-11-1947 ở Hà Giang ta diệt 400 tên địch. Những trận đánh ở Việt Bắc gây cho Pháp thiệt hại lớn và làm cho chúng khiếp sợ. Ở các chiến trường khác, ta cũng đánh mạnh phối hợp với chiến trường Việt Bắc. Ta đánh Pháp mạnh ở Sơn Tây, ở Gia Lâm (Hà Nội), ở Long Xuyên (An Giang), ở Sài Gòn-Chợ Lớn. Bị thiệt hại và thất bại nặng nề, Pháp phải rút khỏi Việt Bắc. Cuộc rút lui kéo dài từ tháng 11-1947 đến 20 tháng 12 -1947 mới kết thúc .
(Còn nữa)
CVL