Kỳ 6.
Trong khi đó, Việt Minh không có pháo, có pháo cũng không thể đưa tới được Điện Biên Phủ, vận chuyển lương thực lại càng khó khăn. Việt Minh kéo quân lên đó mà không có lương thực, không có pháo thì sẽ bị quân ta nghiền nát trong một đến hai tuần.
Đại tá Andere Trancart hỏi:
-Thưa Tổng tư lệnh, nếu Việt Minh không tấn công lên Điện Biên Phủ thì sao ạ?
-Không sao cả, nếu vậy thì Việt Minh thua ở Tây Bắc và Thượng Lào, ta sẽ làm chủ vùng chiến lược quan trọng này và toàn bộ miến Bắc Đông Dương, từ đó ta sẽ chủ động tấn công các chiến trường khác. Ở các chiến trường khác, Việt Minh cũng sẽ bó tay trước các tập đoàn cứ điểm. Có thể nói, xây dựng các tập đoàn cứ điểm cũng là một trong điểm cơ bản trong kế hoạch quân sự của chúng ta.
H.Navarre hỏi thêm:
-Các ngài còn ý kiến gì không?
Im lặng. Navarre nói tiếp:
-Vậy Bộ Tham mưu thống nhất xây dựng Điện Biên Phủ thành Tập đoàn cứ điểm. Tôi ra lệnh các ngài cùng tôi chỉ huy bắt đầu công việc xây dựng. Tôi sẽ báo cáo cho Chính phủ Pháp về kế hoạch này.
Cả bộ Tham mưu đứng dậy nâng cốc:
-Chúc ngài Tổng tư lệnh thành công ở Điện Biên Phủ.
-Chúc mừng ngài Tổng tư lệnh.
-Cảm ơn các ngài, chúc chiến thắng của chúng ta ở Điện Biên Phủ.
Navarre cùng bộ Tham mưu cạn cốc vui vẻ khi đã tìm ra lối thoát cho sự bế tắc của Pháp trong tám năm chiến tranh, cũng là bế tắc của kế hoạch Navarre ở Đông Dương.
Ngày 2 tháng 11 năm 1953, H. Navarre gọi điện cho tướng Cognu, tư lệnh quân đội Pháp ở miền Bắc:
-Alo, tôi Navarre đây.
Đầu dây từ Hà Nội:
-À, tôi Cognu đây, chào ngài Tổng tư lệnh.
-Chào ngài Cognu, tôi và Bộ Tham mưu quân đội Liên hiệp Pháp vừa họp xong, đã thông qua kế hoạch xây dựng Điện Biên Phủ thành Tập đoàn cứ điểm mạnh nhất để bảo vệ Lào và miền Bắc Đông Dương, để tạo thành cái bẫy nhử các Đại đoàn Việt Minh tới để tiêu diệt, giành thắng lợi quyết định về quân sự. Tôi ra lệnh cho ngài ngày 1 tháng 12 năm 1953 cho quân nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ và xây dựng thành tập đoàn cứ điểm vững mạnh, kiên cố nhất từ trước tới nay.
-Nhưng…
-Không nhưng gì cả, ngài phải thi hành mệnh lệnh.
-Vâng, tôi chấp hành mệnh lệnh, thưa ngài Tổng tư lệnh.
Nghe điện thoại xong, Cognu ngồi vào bản có bản đồ Tây Bắc và dừng lại ở vị trí Điện Biên Phủ. Chung quanh là các sĩ quan tùy tùng. một sĩ quan hầu cận đưa cho Cognu một cốc rượu vang. Rene Cognu vừa cầm rượu uống vừa đọc tài liệu ghi về Điện Biên Phủ: Điện Biên Phủ là một thung lũng phì nhiêu ở Tây Bắc Việt Nam, dài 15 km, rộng 5 km. Giữa thung lũng có con sông Nậm Rốm chảy qua. Điện Biên Phủ còn được gọi là cánh đồng Mường Thanh do người Thái cày cấy quanh năm để sinh sống. Ở đây có một sân bay cũ của Nhật Bản bị bỏ hoang khi họ rút khỏi Đông Dương năm 1945. Sân bay nằm dọc theo sông Nậm Rốm về phía bắc lòng chảo.
Điện Biên Phủ cách Hà Nội 300 km về phía tây, cách Lai Châu 80 km về phía nam, chung quanh là núi non trùng điệp, rừng cây bao phủ dày đặc. Cũng như Lai Châu, Nà Sản, Điện Biên Phủ là điểm chiến lược quan trọng bảo vệ Tây Bắc và Lào, trong đó có cố đô Luông prabang. Đọc đến đây, Cognu dừng lại uống một ngụm rượu và nghĩ: “Nếu xây dựng kiên cố, Điện Biên Phủ sẽ là một căn cứ bộ binh, không quân lý tưởng, là chiếc chìa khóa của Thượng Lào”. Cognu đồng quan điểm với H.Navarre, nếu Việt Minh tấn công thì sẽ bị nghiền nát tại cái bẫy chết người này. Cognu bảo một sĩ quan phụ tá:
-Anh đã ghi chép khi Navarre ra lệnh, ông ta nói phải hoàn thành nhảy dù xuống Điện biên Phủ vào lúc nào?
-Dạ, ngài H.Navarre nói từ 15 đến 20 tháng 11, chậm nhất là ngày ngày 1 tháng 12 năm 1953 phải chiếm được Điện Biên Phủ và bắt đầu xây dựng Tập đoàn cứ điểm ạ. Chiến dịch này mang tên là chiến dịch “Hải ly” ạ.
Cognu ra lệnh:
-Cho gọi tướng Jean Gilles lại đây.
-Dạ, tuân lệnh.
Một lát sau Gilles tới:
-Xin chào ngài Tư lệnh.
-Ngồi đi, uống chút vang đi.
-Cảm ơn tư lệnh.
Gilles uống xong rượu, Cognu nói:
-Sĩ quan Gileles nhận nhiệm vụ.
-Tôi đã sẵn sàng, thưa Tư lệnh.
-Ngày 20 tháng 11 năm 1953, lúc 11 giờ sáng ngài hãy chỉ huy 63 máy bay C-57 Dakota xuất phát từ sân bay Gia Lâm Hà Nội bay lên Điện Biên Phủ thả 3.000 lính dù, vũ khí và chiến cụ xuống địa điểm này, chiếm cánh đồng Mường Thanh và khu vực chung quanh.
Gilles đứng dậy dập chân nghiêm và nói:
-Tôi xin tuân lệnh.
-Thiếu tá Marcelle Biceard và Tiểu đoàn dù 6 thuộc địa (6eBPC) nhảy xuống điểm D2 Tây Bắc.
-Tuân lệnh Tư lệnh.
-Thiếu tá Jean Brechignac và Tiểu đoàn 2, Trung đoàn nhẹ số 1 (II/1erRCP) nhảy dù xuống điểm Z phía nam.
-Tuân lệnh.
Từ đó ngày 21 và 22 tháng 11 năm 1953, liên tiếp 3 Tiểu đoàn dù với 1 đại đội pháo binh do Cognu điều động nhảy xuống Điện Biên Phủ. Ngày 24 tháng 11, đường băng cũ của Nhật Bản được sửa chữa xong, phi cơ vận tải đã đáp xuống. Cognu gọi điện cho H.Navarre:
-Báo cáo Tổng tư lệnh, cho đến ngày 23 tháng 1 tôi đã ném xuống cánh đồng Mường Thanh 6 Tiểu đoàn dù, khoảng 4.500 lính.
H. Navarre đáp:
-Tốt, ngài hãy ra lệnh cho công binh bắt đầu xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được rồi, nhớ là các công trình lô cốt, hầm ngầm, hào phải bằng bê tông cốt thép kiên cố để đạn pháo cũng không thể phá vỡ, nhớ cấu trúc bố trí hỏa lực nhiều tầng, sao cho dày đặc.
-Thưa Tổng tư lệnh, tôi rõ.
Từ đó, trong suốt cuối tháng 11 và tháng 12, hàng ngày hàng chục lượt chuyến bay xuất phát từ các sân bay Miền Bắc như Gia Lâm, Hà Nội, Cát Bi, Hải Phòng chở nguyên vật liệu xi măng cốt thép hàng nghìn tấn lên Điện Biên Phủ. Cuối cùng là hàng nghìn tấn bom đạn, pháo các cỡ được tháo ra, hàng nghìn tấn lương thực, thực phẩm, nước uống, 3.000 tấn dây thép gai để rào bao quanh cùng với các bãi mìn quanh những cứ điểm.
(Còn nữa)
CVL