Kỳ 6
QUỐC HIỆU ĐẠI VIỆT THỜI LÝ- TRẦN (1054-1400)
1. Quốc hiệu Đại Việt thời Lý (1054-1225)
Nhà Lý (1009-1225) do Lý Công Uẩn sáng lập. Sau khi lên ngôi (1009), Lý Công Uẩn xưng là Lý Thái Tổ, dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên là Thăng Long (1010). Năm 1054 đổi quốc hiệu Đại Cồ Việt thành Đại Việt. Nếu như các triều Ngô-Đinh-Tiền Lê đặt nền tảng thì nhà Lý bắt đầu xây dựng một quốc gia phong kiến tập quyền hùng mạnh trên cơ sở điền trang thái ấp. Vua nắm tất cả quyền lực nhà nước, xưng là Thiên Tử (con trời), thay mặt trời để cai trị nhân dân. Mệnh lệnh của nhà vua là lệnh của trời, chống lại vua là chống lại trời.
Ở Trung ương, nhà Lý đặt ra phẩm cấp 9 tước vị, đặt ra chức Tể tướng (Phụ quốc thái uý) là chức quan cao nhất, chỉ đứng sau vua, đặt ra tam Thái: Thái sư, Thái bảo, Thái phó, đặt ra các Bộ thượng thư, tả hữu Tham tri, Bộ thị lang, tả hữu Lang trung, tả hữu Gián nghị đại phu, Điện học sĩ, Hàn lâm học sĩ. Ban võ đặt ra các chức Thái uý, Thiếu uý, Kiểm hiệu bình chương sự, Đô thống, Nguyên suý, Tổng quản . Nhà Lý xây dựng quân đội hùng mạnh nhiều cấp, nhiều thứ quân, thi hành chính sách “Ngụ binh ư nông” (gửi binh lính ở nhà nông), quân lính thay phiên nhau về sản xuất như những triều đại trước bảo đảm kinh tế và quốc phòng. Năm 1042 nhà Lý cho biên soạn và thực hiện bộ Hình Thư. Đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta. Thời vương triều Lý Phật giáo phát triển hưng thịnh nhất. Hàng trăm chùa chiền, tháp được xây dựng trên khắp nước. Tuy nhiên nhà Lý đã bắt đầu dùng Nho làm tư tưởng chính trị của nhà nước. Trên cơ sở sức mạnh quốc gia phát triển toàn diện, năm 1075, 1076-1077 nhà Lý lãnh đạo nhân dân đánh bại cuộc xâm lược qui mô to lớn của nhà Tống bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Nhà Lý chia toàn quốc thành các đơn vị hành chính lộ (có 24 lộ), phủ, huyện, hương, giáp, thôn (bản ở miền núi). Nơi xa trung ương gọi là châu (Châu Hoan, Châu Ái), miền núi gọi là trại. Nhà Lý đã thực hiện chính sách “Ki mi” (ràng buộc) đối với thủ lĩnh các dân tộc thiểu số, tức là gả công chúa nhà Lý cho các thủ lĩnh thành Phò Mã, thành con cháu trong triều đình để họ trung thành và cai quản tốt các vùng dân tộc. Những phò mã trung thành và tận tuỵ có công với nhà Lý phải kể đến Dương Tự Minh người Tày trấn giữ miền Cao Bằng, Bắc Cạn và Thân Cảnh Phúc ở Lạng Sơn.
Nhưng cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII, chính quyền họ Lý bước vào thoái hoá, suy vong. Lý do chính là các đời vua con, vua cháu, quan con, quan cháu chỉ lo bóc lột nhân dân để ăn tiêu xa xỉ, không chăm lo phát triển kinh tế, đẩy nhân dân vào con đường đói khát đau thương. Nạn đói năm 1181 giết chết 1/2 dân số . Bất tài và vô trách nhiệm, vua Lý Huệ Tông bỏ đi tu ở chùa Chân Giáo, để lại ngai vàng cho con gái mới 7 tuổi là Lý Chiêu Hoàng. Toàn bộ quyền hành nằm trong tay dòng họ ngoại thích: họ Trần mà người tiêu biểu là Trần Thủ Độ.
Năm 1225, do sự bố trí của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng kết duyên cùng Trần Cảnh, sau đó Nữ Hoàng nhường ngôi cho chồng. Nhà Lý đi vào lịch sử. Vương triều mới được thành lập: Vương triều Trần.
Nhà Lý do Lý Công Uẩn sáng lập tồn tại được 216 năm, trải qua 9 đời vua. Vua đầu là Lý Thái Tổ (1009-1028 )-19 năm .
Lý Thái Tông (1028-1054 )-27 năm .
Lý Thánh Tông (1054-1072 )- 17 năm .
Lý Nhân Tông (1072-1127 )-56 năm .
Lý Thần Tông ( 1128-1138 )-10 năm .
Lý Anh Tông (1138-1175 )-37 năm .
Lý Cao Tông (1176-1210 )-35 năm .
Lý Huệ Tông (1211-1225 )-14 năm .
Lý Chiêu Hoàng (1225 ).
2. Quốc hiệu Đại Việt Đời Trần (1225-1400).
Vương triều Trần ra sức xây dựng Đại Việt thành một quốc gia phong kiến phát triển mọi mặt dựa trên cơ sở kinh tế điền trang thái ấp có từ thời Ngô -Đinh-Tiền Lê-Lý và ngày càng được mở rộng. Nhà Trần định đô ở Thăng Long, quốc hiệu Đại Việt. Nhà nước phong kiến chuyên chế tập quyền ngày càng hoàn bị rõ nét. Vua là người đứng đầu nhà nước, nắm tất cả các quyền lực cơ bản. Vua được thần thánh hoá là Thiên Tử. Trong triều đặt ra các chức Tam thái (Thái sư, Thái bảo, Thái phó) và Tam thiếu (Thiếu sư, Thiếu bảo, Thiếu phó), đặt ra chức Tam tư (Tưđồ, Tư mã, Tư không). Bên dưới có thêm tả hữu Tướng quốc để giúp việc. Nhà Trần tiến sâu hơn một bước trong việc cai trị theo chuyên ngành, đạt ra 6 bộ, mỗi bộ do một Thượng thư đứng đầu. Bộ binh phụ trách quân sự, Bộ hộ coi sóc dân số, Bộ hình coi sóc hình án, Bộ công phụ trách xây dựng và các công xưởng của nhà nước, Bộ Lại phụ trách tuyển dụng, bổ nhiệm, thăng giáng quan lại, Bộ Lễ phụ trách ngoại giao, giáo dục thi cử, lễ nghi của triều đình. Còn có tả hữu Bộc xạ, Gián nghị đại phu, Lang trung, Trung thư lang quân. Đặt chức Ngự sử đại phu để đàn hạch, giám sát các quan. Còn thêm Thị ngự sử, Giám sát ngự sử, Chủ thư thị ngự sử, Ngự sử trung tán, Ngự sử đại phu, Giám sát ngự sử, Tưđồ là Tể tướng, Tư mã phụ trách quốc phòng, tư pháp, Tư không coi sóc các công việc còn lại. Tam tư tướng quốc và Chức Đại hành khiển tham tri chính sự là những chức quan đứng đầu các quan.
Nhà Trần lập những cơ quan chuyên trách là các viện: Khu mật viện để tham nghị triều sự, Hàn lâm viện soạn chiếu thư, Quốc sử viện biên soạn lịch sử, Quốc tử giám trông coi giáo dục, Thái y viện trông coi việc chữa bệnh, lo y dược trong cung. Bên ngoài triều có các chức quan An phủ, Trấn phủ, Tri phủ, Thông phán, Kiểm phán, Tào vận lệnh, Hà đê chánh sứ, Hà đê phó sứ, Đồn điền chánh phó sứ.
Về quân sự có chức Phiêu kỵ thượng tướng quân (chỉ phong cho Hoàng tử), Kim ngô vệ đại tướng quân, Vũ vệ đại tương quân, Thân vệ tướng quân, Đô thống chế, Kinh lược sứ, Phòng ngự sử, Quan sát sứ, Thủ ngự sử, Đô hộ thống, Tổng quản.
Nhà Trần chia nước thành 12 lộ (thời Lý 24 lộ), dưới lộ là châu, huyện, xã, thôn (bản ở miền núi). Lãnh thổ Đại Việt dưới triều Trần đã tiến vào thêm hai Châu Ô và Châu Rí (Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế ngày nay). Hai châu là quà cưới của vua Chiêm Thành là Chế Mân tặng để cưới Công chúa Huyền Trân. Quan lại nhà Trần dược cấp lương bổng. Quân đội bao gồm 3 thứ quân: Quân cấm vệ của triều đình, Quân các lộ (địa phương) và quân của các vương hầu. Nhà Trần lập ra Giảng võ đường để huấn luyện quân đội. Chính sách “Ngụ binh ư nông” ở các triều đại trước vẫn được duy trì để bảo đảm sản xuất và bảo đảm quốc phòng.
Các vua Trần sớm nhường ngôi cho Thái tử, lui về làm Thái Thượng Hoàng để rèn dạy cho vua trẻ, ngăn chặn việc cướp ngôi. Nhà Trần ban hành bộ luật “Hình thư”, “Quốc triều thông chế” gồm 20 quyển qui định về tổ chức chính quyền và qui chế hành chính. Như vậy so với nhà Lý pháp luật đời Trần đã trở thành một hệ thống. Các hoàng tử, thân vương nắm các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước phải là những người có tài năng. Không có tài năng chỉ được cấp điền trang thái ấp hưởng về kinh tế bổng lộc. Để phục vụ cho sự thống trị, nhà Trần đưa Nho lên địa vị chủ yếu thay thế cho Phật giáo. Nho chiếm ưu thế. Nho sĩ được trọng dụng trong bộ máy nhà nước. Nhà Trần chăm lo phát trển kinh tế, quan tâm đến đời sống của nông dân. Chính trị, kinh tế, văn hoá phát triển đã tạo nên sức mạnh to lớn để dân tộc ta lập nên võ công hiển hách thế kỷ XIII, đánh bại ba lần xâm lược của đế quốc Nguyên-Mông, một đế quốc hung bạo và to lớn nhất đương thời: lần 1 năm 1258, lần 2 năm 1285, lần 3 năm 1287-1288.
Vào cuối thế kỷ XIII, Vương triều Trần đã hết sức sống và bước vào cuộc khủng hoảng. Nguyên nhân khủng hoảng cũng giống như Vương triều Lý. Các vua con, vua cháu, quan con, quan cháu sau một thời gian đất nước hoà bình liền lao vào con đường ăn chơi sa đoạ, ra sức cướp đoạt ruộng đất của nông dân, bóc lột họ một cách tàn khốc, không chăm lo phát trển kinh tế dẫn đến mất mùa đói khát. Nông dân bị đẩy đến bước đường cùng liên tục nổi dậy chống lại triều đình. Phía Nam, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga nhiều lần tấn công Đại Việt, có lần uy hiếp cả kinh thành Thăng Long. Lại thêm nhà Trần nhiều lần gây xung đột với Ai Lao. Tất cả làm cho nền thống trị nhà Trần lung lay tận gốc, đứng bên miệng hố diệt vong. Quyền lực nhà nước tập trung vào tay Hồ Quí Ly. Năm 1397 Hồ Quí Ly buộc vua Trần Thuận Tông dời về thành An Tôn (Vĩnh Lộc-Thanh Hoá). Ngày 28 tháng 2 năm 1400 Hồ Quí Ly phế bỏ nhà Trần, lập ra Vương triều mới: triều Hồ.
Vương triều Trần do Trần Thủ Độ sáng lập tồn tại được 175 năm, qua 12 đời vua.
Vua đầu là Trần Thái Tông (1225-1258) -33 năm .
Trần Thánh Tông (1258-1278 )-20 năm .
Trần Nhân Tông (1279-1293 )-14 năm .
Trần Anh Tông (1293-1314 )-21 năm .
Trần Minh Tông (1314-1329 )-15 năm .
Trần Hiến Tông (1329-1341 )-12 năm
Trần Dụ Tông (1341-1369 )-28 năm .
Trần Nghệ Tông (1370-1372-2 năm .
Trần Duệ Tông (1372-1377 ) -5 năm
Trần Phế Đế (1377-1388 )-11 năm .
Trần Thuận Tông (1388-1398 )-10 năm .
Trần Thiếu Đế (1398-1400 )-2 năm .
(Còn nữa)
CVL