Kỳ 24
Vương triều Nguyễn do Nguyễn Ánh sáng lập (1802-1945), tồn tại 143 năm với 13 đời vua :
1 . Gia Long Hoàng Đế-Nguyễn Ánh (1802-1819)-17 năm .
2 . Minh Mệnh Hoàng Đế (1820-1840 )-20 năm .
3 . Thiệu Trị Hoàng Đế (1841-1847 )-7 năm .
4 . Tự Đức Hoàng Đế (1848-1883 )-35 năm .
5 . Dục Đức-1883 (làm vua ba ngày) .
6 . Hiệp Hoà (6-11-1883 ).
7 . Kiến Phúc (12-1883-8-1884) .
8 . Hàm Nghi (8-1884-8-1885), bị Pháp lưu đày sang Angiê
9 . Đồng Khánh (10-1885-12-1888)-3 năm .
10 . Thành Thái (1-1889-7-1907)-18 năm, bị Pháp đày ở Rêuyniông .
11 . Duy Tân (1907-1916)-9 năm, bị Pháp lưu đày sang Rêuyniông
12 . Khải Định (1916-1925)-9 năm .
13 . Bảo Đại (1926-1945 )-19 năm .
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nướcViệt Nam dân chủ cộng hoà đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố trước quốc dân và thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuyên ngôn khẳng định quyền hưởng tự do độc lập là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của nhân dân Việt Nam, là ý chí quyết tâm không sức mạnh gì có thể lay chuyển nổi. Nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ vững nền tự do độc lập. “Tuyên ngôn độc lập” là kết tinh quyền lợi và nguyện vọng cơ bản của nhân dân, là kết quả của quá trình đấu tranh anh dũng liên tục hàng trăm năm của nhân dân Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là bước nhảy vọt vĩ đại trong lịch sử tiến hoá của dân tộc. Sự kiện trọng đại này đã kết thúc thời kỳ thuộc địa nửa phong kiến, mở ra một thời đại mới cho lịch sử dân tộc. Cách mạng tháng Tám đã đập tan ách đô hộ gần 100 năm của thực dân Pháp, 5 năm dưới gót sắt tàn bạo của phát xít Nhật, lật đổ chế độ phong kiến phản động, phản dân, hại hước, tay sai của bọn xâm lược ngoại bang, lập nên nhà nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Cách mạng đã đưa nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến thành nước độc lập tự do dân chủ, đưa nhân dân ta từ nô lệ lên địa vị chủ nhân đất nước, thành người dân tự do, đưa Đảng cộng sản Đông Dương từ địa vị không hợp pháp thành Đảng cầm quyền. Cách mạng tháng Tám đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: Kỷ nguyên độc lập dân chủ, chủ nghĩa gowin99 . Cách mạng Tháng Tám là bước khởi đầu dẫn tới chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đánh bại thực dân Pháp xâm lược, dẫn tới chiến thắng oanh liệt mùa xuân 1975 đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của tổ quốc, thống nhất nước nhà. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác- Lênin ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đựợc áp dụng một cách sáng tạo, góp phần làm phong phú thêm lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin, kinh nghiệm giải phóng dân tộc. Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã góp phần vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào và cách mạng Cam pu chia giành thắng lợi. Cách mạng Tháng Tám đã chọc thủng một khâu trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi ngày càng phát triển mạnh mẽ sau Đại chiến thế giới thứ hai.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi nhanh chóng vì đã kết hợp chặt chẽ điều kiện chủ quan với điều kiện khách quan. Cách mạng được chính Đảng Mác Lê-nin lãnh đạo. Đảng vạch ra đường lối chiến luợc, sách lược đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam qua các cuộc tổng diễn tập 1930-1931, 1936-1939, từng bước xây dựng lực lượng chính trị của cách mạng. Đến thời kỳ 1939-1945, Đảng phân tích và dự báo một cách khoa học rằng phe phát xít nhất định thất bại, tạo thời cơ lớn cho ta giải phóng dân tộc. Do đó Đảng ra sức lãnh đạo nhân dân xây dựng lực lượng, tiến hành khởi nghĩa từng phần và khi thời cơ đến phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là do Đảng biết kết hợp nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến. Cách mạng thắng lợi là do Đảng xây dựng được khối liên minh công nông, trên cơ sở đó xây dựng được Mặt trận đoàn kết dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn để chiến thắng kẻ thù. Trên cơ sở xây dựng lực lượng chính trị, cách mạng tiến hành xây dựng luợc lượng vũ trang, xây dựng bạo lực cách mạng quần chúng, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang . Cách mạng tháng Tám kết hợp hai hình thức đấu tranh nhưng đấu tranh chính trị của quần chúng là chủ yếu.
Trong hoàn cảnh Đại chiến thế giới thứ hai, Đông Dương bị phát xít Nhật thống trị thì việc Hồng quân Liên Xô đánh bại phát xít Nhật là điều kiện khách quan hết sức quan trọng tạo nên thắng lợi nhanh chóng, ít đổ máu của cách mạng Tháng Tám, 6 vạn quân tinh nhụê của Nhật ở Đông Dương hoang mang, mất tinh thần. Ta lại khéo vận động tuyên truyền nên quân đội Nhật ở Đông Dương hầu như không có phản ứng gì khi ta tổng khởi nghĩa. Xây dựng lực lượng bên trong để đón thời cơ và khi thời cơ đến phát động tổng khởi nghĩa đúng thời cơ tạo nên thành công rực rỡ của cách mạng Tháng Tảm. Với cách mạng Tháng Tám, Đảng đã thành công trong việc giải quyết đúng đắn vấn đề thời cơ với nghệ thuật khởi nghĩa.
Cách mạng Tháng Tám để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Cách mạng Tháng Tám là kết quả hàng trăm năm đấu tranh của biết bao chiến sĩ anh hùng, biết bao đồng bào và những chiến sĩ cộng sản đã hi sinh oanh liệt. “Họ đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của dân tộc lên trên hết, đã tin tưởng sâu sắc vào tương lai của Đảng, của dân tộc, đã hi sinh tất cả, đem xương máu vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa kết quả tốt đẹp như ngày nay. Tất cả chúng ta phải noi theo các gương anh hùng, gương chí công vô tư, mới xứng đáng là người cách mạng” (Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 3, trang 3) .
4. Cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, xây dựng và bảo vệ chế độ mới (2-9-1945-22-9-1946).
Tình hình Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám: Sau cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời đã đứng trước nhiều khó khăn to lớn. Trước hết là khó khăn về kinh tế. Với hậu quả 100 năm bóc lột vơ vét tàn khốc của chế độ thực dân phong kiến, bốn năm vơ vét đã man của phát xít Nhật đã đẩy đất nước và nhân dân ta đến kiệt quệ. Nạn đói năm 1945 do phát xít Nhật gây ra chết hai triệu người vẫn chưa chấm dứt. Sau tháng 9 năm 1945, nạn đói kèm thêm nạn lụt lội, nông dân không có ruộng đất cày cấy, chiến tranh làm cho ruộng đất bỏ hoang. Mọi ngành sản xuất trong nước đình đốn, hàng hoá khan hiếm. Ngân hàng nhà nước trống rỗng, chế độ cũ để lại món nợ khổng lồ 564 triệu đồng Đông Dương; lạm phát trầm trọng. Đồng bạc Đông Dương mất giá, đời sống giá cả đắt đỏ. Nền kinh tế vô cùng nghèo nàn, tiêu điều, xơ xác.
(Còn nữa)
CVL