Trong những năm tháng khó khăn khi còn chiến tranh Bát ăn cơm là mặt hàng phân phối. Những chiếc Bát được sản xuất ở làng Bát Tràng vừa đen vừa méo, cứ chục cái một buộc chữ thập bằng mấy cái rơm sản xuất ra đến đâu bán hết ngay đến đấy. Phải thân quen lắm mới mua được chục Bát. Mang được về đến nhà kiểm tra không cái nào bị nứt là sướng âm ỉ cả tuần.
Thông thường các nhà chỉ đủ Bát ăn cho các thành viên trong gia đình có dư dăm cái để phòng khi có khách. Rửa Bát không may làm vỡ cái nào là cảm thấy xót xa như mất đi một vật gì quý giá. Vào các bữa ăn, cảnh tranh nhau Bát đẹp Bát xấu diễn ra như cơm bữa. Đứa được Bát đẹp thì cười, đứa bị Bát xấu thì mếu đã trở thành “ Chuyện thường ngày ở huyện “. Những lúc như thế Mẹ tôi hay mắng chúng tôi bằng câu : “ Ăn cơm hay ăn Bát ? “. Khổ nhất là khi nhà có việc phải làm dăm mâm cỗ lúc đó buộc phải đi mượn Bát đĩa của họ hàng.
Chỉ riêng mục dùng sơn đánh dấu vào đáy Bát để khi trả không bị lẫn đã là cả một môn “ khoa học về nhận dạng “. Cả Miền Bắc khi đó duy nhất có nhà máy sứ Hải Dương do Trung Quốc giúp. Nhà máy sản xuất các loại Bát, Đĩa, Ấm , Chén, sản phẩm thì nghe nói cũng đẹp nhưng ngày đó chúng tôi có được nhìn thấy bao giờ đâu. Ấy vậy mà khi vào bộ đội vừa nói quê Hải Dương đồng đội phán ngay cho một câu xanh rờn : “ Dân Bát Méo “! .
Nhớ những năm 60 của thế kỷ trước Bát hiếm đến mức có cả nghề hàn Bát , Đĩa vỡ. Thị trấn Cẩm Giàng quê tôi vào những ngày chợ phiên thật đông vui tấp nập. Hàng hóa nông sản ở các xã lân cận đổ về không thiếu thứ gì. Có một bác chuyên nghề hàn Bát không biết ở đâu đến hành nghề ngay trước cửa nhà tôi. Tôi hay đứng xem bác biểu diễn cách hàn Bát trước mọi người để mời mua keo dán. Cái Bát quý như thế mà bị bác đập vỡ đôi rồi dùng một thỏi keo như viên phấn màu nâu hơ lên lửa quét vào chỗ vỡ của hai mảnh Bát dán chúng lại với nhau.
Để khô lại rất chắc, đập ra vỡ chỗ khác chứ chỗ hàn không bung. Tôi và những người đứng xem phục lắm. Nhưng ấn tượng sâu đậm trong tôi lại là những cái Bát dùng để đựng nước Vối bán ở sân Ga Cẩm Giàng. Mỗi khi tàu dừng bánh ở sân ga, tiếng rao “ Ai nước Vối nóng đây “ lại vang lên mời gọi. Nước Vối được ủ trong Ấm đất và rót ra Bát cho khách mua. Mỗi Bát 5 xu, một cái giá rất bình dân với tất cả mọi người. Vào những ngày đông khi gió bấc hun hút thổi mang đến cái lạnh tê tái cho khách đi tàu. Bưng Bát nước Vối nóng trên tay khách đi tàu cảm nhận được cái ấm nóng của Bát nước truyền sang.
Màu nước Vối trong Bát đỏ nâu như màu áo người thân nơi quê nhà. Hương thơm ngai ngái lẫn với một chút khói rơm làm khách nhớ đến những mái nhà tranh ẩn mình dưới những rặng tre thân thuộc. Rồi chậm rãi, khách đưa Bát nước Vối nóng lên môi nhấp từng ngụm nhỏ, thưởng thức vị đắng nhẹ ngòn ngọt của thứ nước uống dân dã đã có tự bao đời. Cùng với những món quà quê khác, nước Vối đã tạo nên nét đặc trưng của Ga Cẩm Giàng quê tôi. Hương vị của Bát nước Vối đã trở thành “ Hương Thầm “ góp phần gắn kết tình thân giữa khách đi tàu và người d.ân địa phương cho dù mới chỉ lần đầu gặp mặt. Tàu đã chuyển bánh, nhưng người bán vẫn còn đứng dưới sân ga với ấm nước Vối nóng và chồng Bát trên tay lưu luyến dõi theo bóng con tàu dần khuất.
Chuyện làng quê