1. Histoire D'un Amour
"Historia de un Amor" (tiếng Tây Ban Nha: Chuyện một cuộc tình) là một bài hát về mối tình đã mất do nhạc sĩ Panamá Carlos Eleta Almarán soạn. Ông viết bài này năm 1955 khi người em dâu bị tai nạn và thiệt mạng. Sang năm sau tức năm 1956 bản nhạc này được dùng làm nhạc nền cho cuốn phim cùng tên Historia de un Amor quay ở México với sự cộng tác của Libertad Lamarque. Nội dung bài hát là lời trần tình than tiếc của một người đàn ông sau khi mất mối tình cực đẹp. Bản này được xem là kinh điển của dòng nhạc bolero.
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Carlos Almaran (ngoài cùng bên trái), Thư viện Quốc gia Panama đã tổ chức triển lãm tư liệu về những thành tựu của ông
Theo Hiệp hội các tác giả Panamá, bài hát này tính đến nay đã thâu lại hơn hai ngàn phiên bản (cover), chiếm hạng đầu trong số các giai điệu La Tinh, đứng hàng thứ sáu trong số các ca khúc quốc tế được thu thanh nhiều nhất.
Lời tiếng Việt được nhạc sĩ Anh Bằng soạn với tựa là "Chuyện tình yêu" từng được Ngọc Lan, Lâm Nhật Tiến và Bằng Kiều trình bày.
Panamá Carlos Eleta Almarán sinh ngày 16 tháng 5, 1918, tại thành phố Pan-na-ma, Panama, mất ngày 17 tháng 1, 2013, Quốc tịch: Panama.
HAUSER - Historia de un Amor
Hát theo phong cách Latin: French Latino - Historia de un Amor
Dalida - Hát tiếng Pháp
Ngọc Lan
2. Tocata
Toccata là một trong những bài nhạc rất nổi tiếng của Paul Mauriat. Toccata là tên thể lại nhạc đến từ tiếng Ý “Toccare”, có nghĩa là “Chạm nhẹ”, với đặc trưng nhấn mạnh đến những động tác chuyển động nhanh nhẹn nhẹ nhàng trên phím đàn của nhạc sĩ trình tấu.
Bản nhạc này gây ấn tượng mạnh mẽ và in sâu vào ký ức tôi, bởi tôi được nghe nó vào một buổi tối sau cơn mưa ở thành phố Đà Nẵng vừa mới được giải phóng, tháng 4 năm 1975. Vốn yêu nhạc, nhưng cuộc chiến tranh khiến tôi ít có điều kiện tiếp cận với âm nhạc. Khi từ núi rừng Trường Sơn xuống Đà Nẵng, vợ chồng tôi ở một căn phòng nhỏ tại phố Lê Thánh Tôn. Sau cơn mưa, tôi đi từ nhà mình ra phố, qua một vườn cây nhỏ với những hàng cây thấp mà nước mưa đang giọt nhẹ, thì sững người nghe giai điệu Tocata cất lên từ nơi nào đó. Tôi đứng lặng nghe, tâm hồn thấy mát rượi, trong khi những giọt nước mưa thỉnh thoảng nhẹ nhàng rơi trên vai tôi. Bản nhạc rộn ràng, thanh khiết làm dịu đi những nối căng thẳng mà tôi từng phải trải qua trong cuộc chiến...
Dàn nhạc Paul Mauriat trình diễn bản Tocata
3. La Playa
Năm 2013 là thời điểm sinh nhật năm chẳn của khá nhiều ca khúc lừng danh quốc tế. Trong số những bài xưa nhất, có bài El Cóndor Pasa và bản tango El Choclo ra đời cách đây một thế kỷ. Nhạc phẩm Quién Será được ghi âm tại Mêhicô 60 năm về trước (1953). Một thập niên sau, đến lượt bài La Playa (Bãi biển) đi vòng quanh thế giới nhờ phiên bản đàn ghi ta sáng tác vào năm 1963.
Khúc đàn La Playa mang đậm ảnh hưởng của dòng nhạc La Tinh nhưng thật ra bản nhạc này lại do một nhà soạn nhạc người Bỉ tên là Jo Van Wetter viết vào năm 1963, tức cách đây vừa đúng nửa thế kỷ. Tác giả bài hát tên thật là Georges Joseph Van Wetter, sinh trưởng trong một gia đình gốc flamand, nhưng cha mẹ ông đến lập nghiệp tại vùng Wallonie chủ yếu nói tiếng Pháp ở Bỉ.
Tuy không xuất thân từ một gia đình có dòng máu nghệ sĩ, những từ thuở nhỏ ông đã có năng khiếu âm nhạc. Thời niên thiếu, dù chưa được đào tạo bài bản, nhưng Jo Van Wetter chịu khó tự học đàn. Ông tham gia khá nhiều ban nhạc trẻ chuyên đi diễn tại các liên hoan địa phương và chủ yếu chơi lại các ca khúc thịnh hành từ những năm 1940 đến thập niên 1950.
Đến khi trưởng thành, ông Jo Van Wetter dời nhà về thủ đô nước Bỉ, và bắt đầu học đàn ghi ta cổ điển tại Nhạc viện thành phố Bruxelles. Ông học cùng một lớp với tay đàn ghi ta Charles Danielli. Cả hai về sau này đều mở lớp dạy nhạc, trong số những học trò của họ có Philip Catherine, một trong những tay đàn ghi ta nhạc jazz lừng danh nhất nước Bỉ.
Công việc dạy đàn không đủ sống, cho nên Jo Van Wetter sau khi tốt nghiệp nhạc viện thủ đô, tham gia vào rất nhiều nhóm nhạc lớn nhỏ để kiếm tiền qua các vòng lưu diễn tại các quán nhạc hay vũ trường. Trong nhiều năm liền, ông chủ yếu đi biểu diễn với các dàn nhạc hoà tấu dưới sự điều khiển của Jean Omer và nhất là của nhạc trưởng Henri Segers. Bên cạnh đó, ông cũng thường xuyên xuất hiện trong khá nhiều dự án ghi âm của giới nghệ sĩ trẻ thời bấy giờ như Frédéric Rottier hay ban nhạc The Cousins.
Đầu những năm 1960, vào lúc mà phong trào nhạc trẻ rộ lên ở châu Âu, giới ca sĩ ‘‘nhí’’ hưởng ứng dòng nhạc rock đến từ Hoa Kỳ bằng cách chuyển dịch rồi ghi âm lại các ca khúc Anh Mỹ, thì Jo Van Wetter lại khám phá các làn điệu ghi ta đến từ đảo Hawai. Cùng với nhiều tác giả khác như Willy Albimoor, Hans Blum và Michael Thomas (Martin Böttcher), nhạc sĩ Jo Van Wetter soạn một số khúc đàn theo thể điệu này.
Cả nhóm lấy tên là ban nhạc The Waikikis, và tập nhạc mang tựa đề là Hawai Tattoo trở thành một trong những album ăn khách nhất vào năm 1961. Trong vòng nhiều tháng liên tục, album này thống lĩnh thị trường các nước Bỉ, Đức, Hà Lan và Luxembourg, để rồi sau đó chinh phục các thị trường Anh Quốc, Canada, Hoa Kỳ và Nam Mỹ.
Sự thành công này đáng lẽ ra sẽ còn vang dội hơn nữa, nếu như ban nhạc The Waikikis lên đường lưu diễn để quảng bá cho album của họ, cũng như cho những bước kế tiếp trong sự nghiệp. Thế nhưng, những bất đồng với nhà sản xuất (Horst Fuchs) buộc một số tác giả phải rút lui.
Tuy sau đó, có cho ra mắt nhiều album khác, nhưng The Waikikis chủ yếu ghi âm ở phòng thu thanh, thành viên hay tác giả có thể luân phiên thay đổi, nhưng thực chất không phải là một nhóm có đủ tầm vóc, cũng như tầm nhìn như ban nhạc người Anh The Shadows với khúc đàn kinh điển Apache đầu thập niên 1960.
Năm 1963, một trong những album ăn khách nhất thị trường quốc tế là tập nhạc cover của nữ danh ca người Mỹ Julie London, qua đó cô ghi âm lại hầu hết các bản nhạc tình La Tinh kinh điển phối theo điệu cool jazz. Khi được nghe album này, Jo Van Wetter mới ngẫu hứng sáng tác khúc đàn mà ông đặt tên là La Playa. Khúc nhạc này trở nên thịnh hành nhờ các bản hòa tấu, song tấu hay độc tấu Tây Ban Cầm (chẳng hạn như phiên bản của Claude Ciari).
Lúc đầu, ông định soạn khúc đàn này theo thể điệu bossa nova (ra đời vào năm 1958), vào lúc mà phong trào này đang trở nên cực thịnh tại các nước Âu Mỹ, sau thành công ngoạn mục của bài Manha de Carnaval, ca khúc chủ đề của bộ phim Orfeu Negro. Rốt cuộc, ông lại phối theo nhịp điệu rumba, nhưng với lối chơi đàn ghi ta thùng rất mộc, chứ không phối với một dàn nhạc theo kiểu nhạc khiêu vũ hay theo phong cách easy listening.
Tác giả người Pháp Pierre Barouh, nghe được khúc đàn La Playa khi anh vừa từ Brazil trở về Paris. Pierre Barouh là người sáng tác sau này nhạc phẩm Samba Sarava (1966) và hát ca khúc chủ đề của bộ phim Un Homme et Une Femme (Câu chuyện một người đàn ông và một người đàn bà) của đạo diễn Claude Lelouch, mà hầu hết mọi người chỉ nhớ mang máng câu hát mở đầu. Cảm thấy hứng thú, Pierre Barouh mới đặt lời ca tiếng Pháp cho giai điệu. Khúc đàn trở thành một bài hát và được ca sĩ Marie Laforêt ghi âm vào năm 1964.
Sau thành công của ca khúc tiếng Pháp, nhiều phiên bản chuyển dịch khác lần lượt ra đời, kể cả tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Còn trong tiếng Việt, bài La Playa có ít nhất hai lời. Bài này từng được tác giả Phạm Duy phóng tác thành nhạc phẩm Dòng sông quê cũ do nhiều nghệ sĩ như Ngọc Lan, Kiều Nga hay Thanh Lan ghi âm lại. Lời Việt thứ nhì, theo một số nguồn ghi chú, là của tác giả David Hà, có tựa đề là Biển vắng Thiên đàng.
Bài hát La Playa ăn khách đến nỗi người Brazil nghĩ rằng ca khúc A Praia bằng tiếng Bồ Đào Nha là một giai điệu của xứ họ. Còn tại Puerto Rico hay Nam Mỹ, không ai tin rằng La Playa trong nguyên tác là một khúc đàn của một tác giả người Bỉ gốc Hà Lan. Theo dòng đời năm tháng, tay đàn Jo Van Wetter đã chìm dần vào quên lãng nhưng khúc nhạc dịu dàng mà ông đã soạn lại trở nên bất hủ, vượt thời gian.
Ciari-La playa 1964
Claude Ciari là một công dân Nhật Bản gốc Pháp, sinh ra ở Nice, năm 1944. Ông bắt đầu chơi guitar khi mới 11 tuổi. Khi ông bước sang tuổi mười sáu, ông tham gia nhóm nhạc rock Les Champions với tư cách là nghệ sĩ guitar chính. Nhóm đã giành được danh hiệu ban nhạc có nhạc cụ xuất sắc nhất tại Pháp. Nhưng Ciari quyết định rời đi vào năm 1964 để thu âm một album chứa giai điệu rhumba mang tên "La Playa", đã trở thành một bản hit tại 45 quốc gia. Lúc ấy ông mới hai mươi tuổi, và đã bán được vài triệu đĩa. Đó là sự khởi đầu của một sự nghiệp đáng kinh ngạc. Ciari vẫn ở Pháp cho đến năm 1974, sau đó chuyển đến Tahiti. Một trong những quốc gia mà anh ấy chơi khá thường xuyên là Nhật Bản. Anh nhập quốc tịch Nhật Bản vào năm 1985. Ciari đã lập hơn 50 đĩa hát và biểu diễn ở nhiều quốc gia. Anh ấy đã viết nhạc cho các bộ phim truyền hình và nhạc phim, và xuất hiện trong các chương trình truyền hình và radio.
Ngọc Lan