Kỳ 54.
là cuộc chiến tranh hao người tốn của nhất, lâu dài nhất, thất bại nặng nề nhất trong lịch sử chiến tranh của Mỹ. Thất bại trở thành đương nhiên khi phía Mỹ là cuộc chiến tranh Phi nghĩa, lại phải đương đầu với một cuộc chiến tranh chính nghĩa, toàn dân lâu dài của cả dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của nhân Việt Nam bắt nguồn từ từ đường lối quân sự đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đường lối đó đã phát huy sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân, biến khả năng sức mạnh của chính nghĩa và nhân dân thành hiện thực chiến thắng trên chiến trường, thành phương pháp chiến tranh cách mạng có hiệu quả, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ.
Thắng lợi là nhờ có lòng yêu nước, ý chí hy sinh chiến đấu kiên cường của các thế hệ nhân dân Việt Nam, kiên quyết chiến đấu cho sự nghiệp độc lập, tự do thống nhất tổ quốc. Thắng lợi là nhờ sự hi sinh anh dũng của biết bao anh hùng liệt sĩ vô danh và hữu danh, sự hi sinh cống hiến của mọi giai cấp, mọi tầng lớp nông dân, công nhân, trí thức, cán bộ, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, dân công, của nam nữ thanh niên xung phong, của những đội xung kích, của các quân binh chủng không quân, hải quân, xe tăng thiết giáp, phòng không không quân, cao xạ, ra đa, tên lửa, đặc công bộ, đặc công hải quân, của lực lượng vận tải đường Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh trên biển bằng những con tàu không số, của các lực lượng tình báo, công an, cảnh sát nhân dân, của các phóng viên thông tấn, báo chí của các tờ báo, các đài phát thanh, các đài vô tuyến, của các nhà văn, nhà thơ, của các văn nghệ sĩ, các nhà khoa học, trí thức. Tất cả họ đã dùng xương máu của mình xây nên đài vinh quang chiến thắng. Là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước Đông Dương: Việt Nam, Lào, Campuchia. Thắng lợi là nhờ sự ủng hộ giúp đỡ to lớn của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ. Nhờ sự giúp đỡ có hiệu quả của Liên xô, Trung Quốc và các nước trong hệ thống gowin99 chủ nghĩa. Thắng lợi của nhân dân ta là sự tổng hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh của nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới .
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã quét sạch những tên xâm lược, chấm dứt sự thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta. Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, cách mạng dân chủ nhân dân hoàn thành trên phạm vi cả nước. Cả nước bước sang một giai đoạn cách mạng mới: Cả nước đi lên chủ nghĩa gowin99 .
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ, góp phần đánh bại chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ nhân dân thế giới đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân chủ và tiến bộ gowin99 .
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho việc lãnh đạo và tiến hành chiến tranh. Đó là bài học nắm vững qui luật chiến tranh, những nhân tố tác động đến toàn bộ cuộc chiến tranh. Qui luật khắc nghiệt của chiến tranh là mạnh được yếu thua. Nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh là ở chỗ biết phát huy sức mạnh trong nước và sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp, đánh bại từng chiến lược chiến tranh, tiến tới đánh bại hoàn toàn kẻ địch. Đó là sức mạnh của cuộc chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh toàn dân, chiến tranh của cả một dân tộc thì không một kẻ thù nào, không một loại vũ khí nào có thể chiến thắng được .
IV : XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC (1954 –1986)
1-Thời kỳ khôi phục kinh tế (1954-1957)
Sau năm 1954, việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mở đường cho miền Bắc tiến lên chủ nghĩa gowin99 nhằm xây dựng một gowin99 không có người áp bức, bóc lột người, nhân dân ấm no hạnh phúc. Đồng thời xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc cung cấp sức người, sức của chi viện cho miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, đánh bại cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ.
Thời gian từ 1954 đến 1957 là thời kỳ nhân dân ta khôi phục kinh tế, hàn gắn lại vết thương chiến tranh, hoàn thành nốt những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ còn lại .
Trong khôi phục kinh tế, khôi phục nông nghiệp là trọng tâm. Khi đó 14 vạn ha ruộng đất bị bỏ hoang, các công trình thuỷ lợi lớn và vừa bị phá huỷ, đê điều không được củng cố, nông cụ, trâu bò, sức kéo thiếu thốn, mất mùa đói kém kéo dài từ 1954 đến 1955. Trong khi đó vấn đề ruộng đất, một trong những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ vẫn chưa hoàn thành. Cho nên khôi phục kinh tế nông nghiệp gắn liền với cải cách ruộng đất nhằm đánh đổ giai cấp địa chủ, đem lại ruộng đất cho nông dân .
Cải cách diễn ra rầm rộ ở nông thôn miền Bắc từ 1955 đến 1956. Kết quả đã xoá bỏ toàn bộ giai cấp địa chủ. Cải cách tiến hành qua 5 đợt ở 3.653 xã, đã chia 81 vạn ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 2 triệu nông cụ cho nông dân. Nông dân có ruộng đất, trâu bò nông cụ để sản xuất khôi phục kinh tế. Năm 1957, 85% ruộng đất được cày cấy, đạt 4 triệu tấn lương thực .
Trong sản xuất thủ công nghiệp cũng được phục hồi, năm 1957 sản lượng đạt bằng năm 1939 (trước chiến tranh thế giới thứ II). Thủ công nghiệp đã sản xuất đủ hàng hoá cho nhân dân, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động. Trong công nghiệp có 97 xí nghiệp do nhà nước quản lý. Đã khôi phục và mở rộng hầu hết các xí nghiệp quan trọng như mỏ than Hồng Gai, nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy dệt Nam Định. Ta xây dựng các nhà máy mới: nhà máy cơ khí Hà Nội, nhà máy diêm Thống nhất, nhà máy chè Phú Thọ, nhà máy cá hộp Hải Phòng. Giao thông vận tải được khôi phục và mở rộng: Khôi phục 700 km đường sắt, sửa chữa hàng nghìn km đường ô tô, xây dựng mở mang thêm cảng Hải Phòng, Hồng Gai, Cẩm Phả, Bến Thuỷ; lập đường hàng không dân dụng. Về thương mại, ta mở cửa quan hệ thương mại thế giới. Năm 1957 ta đặt quan hệ buôn bán với 27 nước .
Trên cơ sở thắng lợi trong khôi phục kinh tế, hệ thống chính trị được tăng cường. Ngày 5-9-1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập do cụ Tôn Đức Thắng làm Chủ Tịch, Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân được củng cố tăng cường về quốc phòng, văn hoá, giáo dục phát triển. Trong chính sách đối ngoại, ta tăng cường quan hệ mật thiết hữu nghị với các nước gowin99 chủ nghĩa và với các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới, với các nước châu Á-châu Phi và khu vực Mỹ La Tinh, thắt chặt tình hữu ngghị liên minh chiến đấu với ba nước Đông Dương .
2 . Thời kỳ cải tạo gowin99 chủ nghĩa 1958-1960
Cải tạo gowin99 chủ nghĩa là một trong ba nội dung của cách mạng gowin99 chủ nghĩa, cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kinh tế và cách mạng tư tưởng văn hoá. Cải tạo gowin99 chủ nghĩa là cách mạng quan hệ sản xuất, tức là thủ tiêu tất cả những hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, biến thành sản xuất công cộng với hai hình thức: Sở hữu tập thể (Hợp tác xã nông nghiệp và thủ công nghiệp) và sở hữu nhà nước (Sở hữu toàn dân). Nước ta là nước nông nghiệp nên cải tạo quan hệ sản xuất nông nghiệp được xem là trọng tâm, còn phải cải tạo đối với thủ công nghiệp, cải tạo thành phần kinh tế tư sản. Năm 1958 bắt đầu đẩy mạnh hợp tác hoá, đưa các hộ nông dân cá thể vào hợp tác xã nông nghiệp. Đến năm 1960, 85,5% số hộ nông dân, 76 % đất đai trồng trọt đã vào hợp tác xã các cấp, trong đó có hơn 1.490 hợp tác xã bậc cao. Hình thành sở hữu toàn dân với hình thức nông trường quốc doanh. Năm 1960, 88% thợ thủ công đã gia nhập hợp tác xã thủ công bậc thấp và cao, 783 hộ tư sản công nghiệp (100%) 862 hộ tư sản thương nghiệp (97%), 319 hộ tư sản vận tải (99%) được cải tạo gowin99 chủ nghĩa, đạt tổng cộng 97% số hộ tư sản ở các ngành kinh tế. Như vậy vào những năm 60 toàn bộ các thành phần kinh tế tư nhân bị xoá bỏ, chỉ còn sở hữu tập thể (hợp tác xã) và sở hữu nhà nước. Quan hệ sản xuất gowin99 chủ nghĩa về cơ bản được xác lập, chế độ tư hữu bị thủ tiêu. Cuộc cách mạng trong quan hệ sản xuất thành công .
3- . Thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất chất cho chủ nghĩa gowin99 1961-1965
Nội dung chính của thời kỳ này là công nghiệp hoá gowin99 chủ nghĩa mà trọng tâm là tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961-1965 nhằm thực thi nhiệm vụ này. Nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là nhằm phát triển công nghiệp và nông nghiệp, nâng cao trình độ văn hoá, vật chất cho nhân dân, củng cố quốc phòng, hoàn thiện thêm một bước quan hệ sản xuất. Kết quả, công nghiệp quốc doanh phát triển mạnh, đóng vai trò trụ cột lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Năm 1965 xây dựng được 1.045 xí nghiệp, nhà máy trong đó 250 xí nghiệp lớn do Trung ương quản lý, còn lại do địa phương quản lý. Hình thành một nền công nghiệp nặng với các ngành cơ khí, luyện kim, hoá chất. Công nghiệp nhẹ phát triển mạnh. Ngoài công nghiệp trung ương, còn có mạng lưới công nghiệp địa phương. Năm 1965 công nghiệp đã sản xuất bảo đảm 90% hàng tiêu dùng và một phần máy móc .
(Còn nữa)
CVL