Trong tiềm thức của tôi từ thủa ấu thơ, Cố đô Huế được coi như dinh luỹ cuối cùng của chế độ phong kiến thối nát, phản động. Và rồi, Huế lại nổi tiếng với những chiến tích của mùa Xuân Mậu Thân, với mười một cô gái Sông Hương trên dòng sông phẳng lặng... Năm 1970, khi hăm hở làm chuyên đề nghiên cứu tập sự của sinh viên năm thứ hai về Tôn Thất Thuyết với sự hướng dẫn và cổ vũ của GS Đinh Xuân Lâm, tôi lại có dịp dung nạp những tư liệu về kinh đô thất thủ sau sự biến Đồn Mang Cá cùng phong trào Cần Vương.
Mãi đến khi tới Huế lần đâu tiên, vào tháng Ba năm 1976, với tư cách là tuỳ tùng của đoàn công tác của Bộ trưởng Văn hoá Hoàng Minh Giám, người và đất Huế mới để lại cho tôi những ấn tượng và tình cảm không thể nào quên. Sông Hương, núi Ngự, cầu Tràng Tiền, Chợ Đông Ba, chùa Thiên Mụ, Trường Quốc Học, Khách sạn Hương Giang...và đặc biệt là những cung diện , lăng tẩm vàng son nhưng tiêu điều...những cơn mưa dầm dề trong cái lạnh xe xe, những nữ sinh Huế dịu dàng trong đồng phục áo trắng duyên dáng...cho đến nay,vẫn là Huế trong tôi và Huế của tôi.
Với riêng mình, cho đến tận bây giờ, tôi mãi không quên cặp mắt đen láy và giọng nói nhẹ nhàng, sâu lắng của một nữ sinh Huế đã dám cả gan cho chúng tôi nghe nhạc Trịnh Công Sơn và giọng ca Khánh Ly- đang bị coi là dòng nhạc vàng uỷ mị, lúc chúng tôi đến thăm nhà em- một gia đình trí giả trên đường Phan Đình Phùng- khi Huế mới giải phóng chưa đầy năm. Với tôi, em là Huế, và Huế chính là em.
Những năm học sau đại học tại Ba Lan về bảo tồn bảo tàng, bắt đầu từ năm 1979, trong tâm thức và các khảo luận chuyên đề của tôi về di sản văn hoá Việt Nam, Huế thường được nhắc đến như là một trong những trung tâm văn hoá nghệ thuật lớn nhất ở Việt Nam, chứa đựng một quần thể di tích lịch sử có giá trị nhất của quốc gia dân tộc.
Sau khi nhận học vị tiến sỹ ở Ba Lan về nước, từ đầu năm 1984, tôi nhận công tác tại Trung tâm Bảo tồn di tích thuộc Bộ Văn hoá với cương vị trợ lý của Giám đốc tài hoa TS KTS Hoàng Đạo Kính. Vì biết tiếng Ba Lan và tham gia đoàn công tác Việt Nam- Ba Lan tu bổ di tích Chăm ở miền Trung nên tôi có điều kiện đến Huế, đến Mỹ Sơn và Hội An nhiều hơn. Nhưng có lẽ sư gắn bó của tôi với di sản văn hoá Huế và những tổ chức cá nhân về bảo tồn di tích Huế chỉ thực sự bắt đầu từ khi được đảm nhận chức danh Thư ký Nhóm Công tác Huế - UNESCO vào giữa năm 1984.
Khi ấy, đất nước đang khó khăn và Huế đang còn rất nghèo. Ban đêm, đường phố vắng tanh và tối om vì thiếu điện. Từ Khách sạn Hương Giang về Nhà 5 Lê Lợi chỉ lác đác có vài bóng đèn đỏ quạch. Công chức ở Huế chỉ dám dành ra vẻn vẹn số tiền bằng một nghìn đồng bây giờ để ăn sáng. Những tà áo dài trắng duyên dáng và cả những tà áo tím đặc trưng của Huế chỉ còn thưa thớt không chỉ vì những quan niệm không chuẩn xác mà còn vì thiếu cả bột gặt nữa.
Trong bối cảnh ấy, Công ty quản lý di tích Huế cũng chỉ hoạt động cầm chừng như nhiều đơn vị và cơ quan khác vì thiếu kinh phí và phương tiện. Khó khăn, thiếu thốn là to lớn nhưng quyết tâm bảo tồn di tích cũng là không nhỏ. Chúng tôi đọc được những suy nghĩ này từ các vị lãnh đạo tỉnh như đ/c Vũ Thắng, Bí thư Tỉnh uỷ, các đ/c Phó Chủ tịch tỉnh phụ trách văn xã như Lê Tư Sơn, tiếp đó là Nguyễn Đình Ngộ và các cán bộ của Công ty như anh Hiện, anh Nhĩ ( tôi xin phép gọi là anh để tỏ lòng yêu kính những vị lãnh đạo đầy tâm huyết này), đến các cán bộ kỹ thuật như anh Phu, anh Cần, chị Huấn, anh Dũng cùng nhiều anh chị em khác.
Những năm cuối của thập niên 80, trong bối cảnh Hoa Kỳ rút ra khỏi UNSCO và chưa rỡ bỏ cấm vận đối với Việt Nam, các hoạt động của Văn phòng Nhóm Công tác Huế là hết sức khó khăn, đặc biệt là trong điều kiện chỉ là kiêm nhiệm. Ví dụ như, muốn gửi một bức điện Telex cho Văn phòng Bang kôc chỉ để trao đổi về vấn đề lễ tân đơn thuần, trước tiên phải được sự đồng ý của Chủ tịch Nhóm, bộ phận văn thư của Văn phòng Bộ mới đánh máy văn bản, rồi chuyển qua Vụ Hợp tác quốc tế để lấy xác nhận của lãnh đạo Vụ, sau đó đăng ký với bộ phận Telex đặt tại KS Thống Nhất ( nay là Sofitel Metropole) để chuyển đi vào ngày hôm sau, chứ lúc ấy chưa có máy FAX hoặc tiện lợi như dùng thư điện tử bây giờ. Chính vì vậy, có những lần, vì không được thông tin kịp thời nên chúng tôi lên sân bay đón khách nhưng họ không vào vì cứ ngỡ là chúng ta đã biết việc hoãn chuyến đi... Lúc ấy, đối với người nước ngoài, kể cả quan chức UNESCO vào công tác, có quy định phải có ảnh để đăng ký tạm trú, muốn đi Huế phải có giấy phép của cơ quan công an. Nhiều khi do khách không có sẵn ảnh, lại phải đi chụp từ hộ chiếu và nếu hôm sau đã rời Hà Nội đi Huế thì những thủ tục này đều phải làm ngoài giờ !
Mặt khác, trình độ và kinh nghiệm hoạt động của chúng tôi lúc ấy còn rất hạn chế, ngay như việc đăng ký và làm thủ tục tiếp nhận cho di tích Huế khoản viện trợ đầu tiên là một chiếc xe TOYOTA cũng làm chúng tôi lúng túng, phải làm đi làm lại hồ sơ vì lúc đó xe ôtô của Nhật chưa thịnh hành ở Việt Nam, hầu hết lãnh đạo Chính phủ chỉ dùng xe Lada 1027...
Hồi ấy, hệ thống đường sá và phương tiện giao thông cũng rất lạc hậu. Tôi còn nhớ rõ những kỷ niêm vào năm 1987, trước kỳ họp Hội nghị toàn thể Nhóm Công tác Huế lần thứ IV, Ông Makazansa, Trợ lý Tổng Giám đốc kiêm phụ trách Văn phòng UNESCO khu vực và Phu nhân cùng Ông Itaq Khan, Cố vấn văn hoá, đã phải đi ô tô từ Huế ra Hà Nội, dọc đường ngủ đêm tại Quảng Bình, vì Hàng không Việt Nam huỷ chuyến bay trong khi ngày giờ họp tại Hà Nội đã được ấn định. Rất không may là hôm ấy Ngài Trợ lý bị đau bụng vì không quen ăn uống như chúng ta nên thỉnh thoảng xe lại phải dừng ven đường để tôi hoặc các anh Nguyễn Thành Châu, Lê Văn Toán phải làm phiên dịch bất đắc dĩ để nhờ các nhà dân cho ông sử dụng những chỗ được coi là nhà nhưng ở ngay ngoài trời và chẳng vệ sinh tý nào. Quả thực đấy thật sự là chuyến đi bão táp, một trong những chuyến đi bằng ô tô khó quên nhất trong đời.
Những năm ấy, trong điều kiện khó khăn của cả nước thì thuận lợi lớn nhất là quan niệm về di tích cố đô Huế nói riêng và sự đánh giá về Triều Nguyễn nói chung của các nhà quản lý ở trung ương và địa phương đã có những sự thay đổi không nhỏ. Đặc biệt là, từ sau khi UNESCO phát động chiến dịch vận động quốc tế về Huế năm 1981, Chính phủ Việt Nam đã dành cho Huế những sự quan tâm không nhỏ.
Về cơ bản, những hoạt động của Nhóm Công tác Huế- UNESCO là hoạt động văn hoá đối ngoại thông qua đầu mối quan trọng là Uỷ ban quốc gia UNESCO của Việt Nam. Cần khẳng định rằng, những vị lãnh đạo của Uỷ ban này, từ các vị Chủ tịch Uỷ ban lúc đầu là Thứ trưởng Võ Đông Giang và tiếp đó là Thứ trưởng ( sau này là Bộ trưởng) Ngoại giao Nguyễn Dy Niên và nhất là các vị lãnh đạo Ban Thư ký như Lê Phương, Hà Huy Tâm, Phan Thị Phúc, Lê Kinh Tài, Nguyễn Thành Châu, Lê Văn Toán và các cán bộ của Ban Thư ký đều rất tận tình với hoạt động bảo tồn di sản văn hoá Huế.
Vì vậy, trong bối cảnh chung lúc này, việc tu sửa Thế Miếu, Triệu Miếu, Thái Bình lâu và Hiển Lâm các rồi Xung Khiêm tạ, Dũ Khiêm tạ ( Lăng Tự Đức)...mặc dầu còn có những hạn chế nhất định nhưng là những cố gắng và thành tựu không thể phủ nhận. Và, cùng với những thành quả bước đầu của công cuộc đổi mơí, chính những nỗ lưc tự thân này là cơ sở cho những sự phát triển tiếp nối của cuộc vận động quốc tế cho sự nghiệp bảo tồn di sản văn hoá Huế.
Từ năm 1989, và nhất là trong các năm 90, 91, các quan chức của UNESCO khuyến cáo mạnh mẽ việc Việt Nam cần thực hiện Công ước về bảo tồn di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới, gọi tắt là Công ước năm 1972 của UNESCO. Lúc ấy, do được nhận học bổng của UNESCO đi thực tập về bảo tồn di tích ở Ấn Độ từ cuối năm 88 đến nửa đầu năm 89 nên việc sử dụng tiếng Anh của chúng tôi đã thuận lợi hơn. Đồng thời, được sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình của ông I.Khan, Cố vấn văn hoá của UNESCO tại Văn phòng Băng cốc, nên công việc của tôi đã bớt khó khăn đi rất nhiều. Thông qua việc chuẩn bị cho việc tổ chức các kỳ hội nghị toàn thể của Nhóm Công tác Huế, đặc biệt là công tác triển khai dự án sử dụng viện trợ của Chính phủ Nhật để tu sửa di tích Ngọ Môn và chuẩn bị các hồ sơ đăng ký bước đầu cho 5 di sản văn hoá và thiên nhiên của Việt Nam ( Huế, Hạ Long, Hoa Lư, Cúc Phương và Hương Sơn) và tiếp đó là hồ sơ khoa học của Huế đề nghị UNESCO công nhận là di sản Thế giới chúng tôi thấy mình thực sự đã tích luỹ được những kinh nghiệm và kiến thức mới.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, kỹ thuật của Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô ( tên gọi mới của Công ty QLDT Huế từ năm 1993) cũng có những bước trưởng thành không thể phủ nhận. Từ chỗ dựa vào các cơ quan chuyên môn của trung ương, dần dần các cán bộ của Huế đã tự mình thiết kế và chỉ đạo thi công tu bổ di tích với hiệu quả và chất lượng ngày càng cao và trở thành những chuyên gia trong lĩnh vực tu bổ di tích ở Việt Nam như KTS Phùng Phu.
Thông qua công việc thực tiễn, nhiều cán bộ đã tự đào tạo và trở thành các nhà nghiên cứu có tầm cỡ như Phan Thuận An, Mai Khắc ứng...tiếp đến là các nhà nghiên cứu trẻ đầy triển vọng như Phan Thanh Hải, Trần Đức Anh Sơn. Tôi nhớ trong lần gặp đầu tiên, anh Nguyễn Hữu Luận, cán bộ phiên dịch của Trung tâm còn không ít lúng túng và thậm chí còn phải nhờ tôi trợ giúp vì chưa nghe quen giọng tiếng Anh- Ấn của ông Khan, nhưng chỉ sau vài năm anh Luận đã trở thành người sử dụng tiếng Anh hết sức thuần thục và góp sức không nhỏ vào việc chuyển ngữ cho bộ hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận Huế là Di sản Thế giới. Những tư liệu lịch sử của anh An, anh Dũng việc sưu tập và biên dịch các tư liệu Hán Nôm của anh Phong, hệ thống tư liệu ảnh của anh Phùng với sự trợ giúp của chị Lê...là những đóng góp không nhỏ góp phần vào việc đưa Huế trở thành Di sản Thế giới vào cuối năm 1993
Nhắc đến di tích Huế, tôi không thể không nhớ đến anh Thái Công Nguyên, một mẫu hình cán bộ quản lý khá đặc biệt với không ít kỷ niệm khó quên từ khi anh là Trưởng phòng Tổ chức rồi là Phó Giám đốc và Giám đốc từ năm 1989. Khi mới đảm nhận cương vị Giám đốc một thời gian, trả lời câu hỏi của một quan chức nước ngoài về chuyên môn đã được đào tạo, anh nói rằng chuyên môn của anh là cách mạng ; thời gian được đào tạo là từ trong bụng mẹ ; bằng cấp là chứng chỉ về chính trị...
Cần khách quan thừa nhận rằng, anh không được học hành bài bản nhưng là người thông minh, biết tiếp nhận những kiến thức của mọi người để biến thành của mình, mặc dù nhiều khi sự chắp nối chúng với nhau là không phù hợp. Nhưng trước hết và trên hết, anh là con người dám nghĩ, dám làm mà việc tổ chức tự sản xuất gạch ngói để tu bổ di tích, việc xây dựng hồ sơ khoa học để đăng ký đưa Huế vào Danh sách Di sản Thế giới, việc xây dựng hệ thống bản đồ khoanh vùng bảo vệ di tích- cơ sở của Quy hoạch tổng thể bảo tồn di tích Huế, việc đứng tên cho các công trình xuất bản về Huế, việc tổ chức thi công tu bổ các di tích tại Đại Nội cùng các lăng tẩm, việc tổ chức đào tạo và thành lập Đoàn ca múa cung đình Huế, cơ sở quan trọng của Hồ sơ nhã nhạc...cũng là những đóng góp không thể phủ nhận của con người độc đáo này. Biết tính anh nếu không được nói là sẽ bị ốm,nên trong những lần đi công tác nước ngoài với anh, mỗi hôm tôi lại gợi cho anh một đề tài để anh say sưa độc thoại...
Từ đầu những năm 90 trở đi, các hoạt động đối ngoại về di sản văn hoá Huế diễn ra liên tục. Nào là dự án tu bổ Ngọ Môn với việc sử dụng viện trợ của Chính phủ Nhật thông qua UNESCO, nào là dự án tu bổ Thế Miếu với việc sử dụng viện trợ của Chính phủ Ba Lan, nào là đoàn CODEV của Pháp tu bổ Duyệt Thị Đường rồi các đoàn làm phim của Nhật Bản, các đoàn chuyên gia do UNESCO cử tới để xây dựng lại Kế hoạch tổng thể bảo tồn di tích Huế, đoàn khảo sát thẩm định hồ sơ đăng ký di sản thế giới... Có những tháng, tôi vào Huế đến ba, bốn lần, lần nào cũng được nghe ca Huế đến nỗi gần như thuộc lòng những nội dung giới thiệu chương trình của Chủ nhiệm Câu lạc bộ- nhà thơ Võ Quê. Vào Huế nhiều đến nỗi ở ngoài Hà Nội, người ta nói rằng, tôi phải lĩnh lương ở Huế thì mới đúng, còn ở Huế có người lại nhận xét rằng tôi am tường những chuyện ở Huế hơn cả người Huế.
Từ đàu năm 1996, tập Báo cáo tổng kết 15 năm cuộc vận động quốc tế của UNESCO về Huế chiếm khá nhiều thời gian của tôi khi phải thường xuyên trao đổi với ông Richard Engehart tại Văn phòng UNESCO khu vực tại Băng cốc về nội dung bản thảo.
Báo cáo này phân tích những nội dung giá trị đặc sắc của di sản gowin99 Huế, sự ủng hộ giúp đỡ của cộng đồng quốc tế cùng những nỗ lực của Việt Nam và UNESCO trong việc bảo vệ và phát huy giá trị những di sản này. Báo cáo này đã được trao đổi kỹ trong kỳ họp lần thứ 8, tổ chức vào năm 1998 tại Huế và Hà Nội. Quan trọng hơn cả là việc so sánh để đưa ra kết luận rằng : Huế, cùng với Borobudur của Indonesia, là hai cuộc vận động quốc tế đã thu được những hiệu quả thiết thực trong tổng số 28 cuộc vận động được phát động bởi UNESCO. Việc tuyên bố chấm dứt cuộc vận động này vì đã đat được mục tiêu cơ bản cũng đồng thời là sự công nhận Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế là một mẫu hình chuẩn mực của khu vực về mô hình quản lý và khai thác các di sản văn hoá thế giới. Những nội dung này sẽ là một trong những hoạt động chủ yếu nhất của kỳ họp lần thứ 9 Nhóm Công tác Huế- UNESCO dự kiến tổ chức trong những năm qua.
Từ cuối những năm 90 trở lại đây, tôi ít vào Huế nhưng những thành tựu của các hoạt động về bảo tồn di sản văn hoá Huế vẫn được cập nhật qua việc chịu trách nhiệm xây dựng các bản Báo cáo đánh giá về tình hình quản lý các Di sản Thế giới đã được công nhận từ 5 năm trở về trước,trong đó có Huế cùng Hạ Long của Việt Nam, và trao đổi thảo luận tại các phiên họp chuyên đề do UNESCO tổ chức tại Hàn Quốc ( 2002) và Pari ( 2003). Những năm qua, hoạt động khoa học và đối ngoại của Trung tâm vẫn đã và đang đạt được những hiệu quả không thể phủ nhận vì đội ngũ cán bộ khoa học của Huế đã có đủ năng lực và trình độ với những gương mặt sáng giá như Phan THanh Hải, Trần Đức Anh Sơn, Nguyễn Văn Phúc...
Cũng cần khẳng địng rằng, trong thập niên 90 của thế kỷ trước, sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh Thừa thiên Huế đã có những thay đổi cơ bản, sâu sát hơn và cụ thể hơn. Tôi hân hạnh quen biết đồng chí Nguyễn Văn Mễ từ khi anh còn là Chủ tịch thành phố Huế, trước khi là Chủ tịch UBND tỉnh rồi Chủ tich Hội đồng nhân dân tỉnh. Lúc đầu, anh nói tiếng Anh còn hạn chế. Những rồi, chỉ một thời gian sau, chúng tôi rất ngạc nhiên khi anh không những chỉ sử dụng thành thạo tiếng Anh mà còn có thể trao đổi với bạn bè nước ngoài bằng tiếng Pháp mà tất cả đều do anh tự học trong bối cảnh đang phải đảm trách cương vị lãnh đạo chủ chốt của tỉnh. Tôi cũng không quên những kỷ niệm qua gần 10 năm gặp gỡ, làm việc với đồng chí Lê Viết Xê khi anh giữ cươg vị Phó Chủ tịch tỉnh, phụ trách văn xã, trong đó có hoạt động bảo tồn di tích và là đại diện của lãnh đạo tỉnh trong Nhóm Công tác Huế- UNESCO
Những năm gần đây, khi không còn là Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn Bảo tàng nhưng tôi vẫn thường xuyên theo dõi những bước tiến và cả những sự kiện liên quan đến di sản văn hoá Huế. Trong chuyến làm việc tại Huế đầu tháng 5/2007 với tư cách là thành viên Hội đồng Di sản Văn hoá quốc gia, tôi đặc biệt vui mừng về những thành tựu mà những đồng nghiệp tại Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô ( đến nay nên đổi tên là Trung tâm Bảo tồn Di sản văn hoá Huế) đã thực hiện dưới sự điều hành của Giám đốc Phùng Phu và sự chỉ đạo trực tiếp của Phó Chủ tịch tỉnh Ngô Hoà. Bộ mặt của quần thế di tích cố đô đã thực sự thay đổi với nhiều công trình đã và đang được tu sửa, phục hồi tại Đại Nội như Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh. Dự án nghiên cứu của Trường Đại học Vaseda, Nhật Bản đã và đang được thực thi với những chuẩn mực khoa học không thể phủ nhận, mà có được những thành quả này, không thể không khẳng định những nỗ lực của tập thể các nhà khoa học do Giáo sự Nakagava lãnh đạo.
Tôi quen GS Nakagava từ năm 1991 khi ông đến Huế lần đầu tiên với tư cách là chuyên gia UNESCO vào giảng dạy cho lớp tập huấn về bảo tồn di tích nhân dịp thực hiện dự án tu sửa Ngọ Môn, rồi sau đó tham gia với tư cách là chuyên gia kỹ thuật, thành viên Nhóm Công tác Huế.
Trong quá trình triển khai dự án nghiên cứu phục hồi Điện Cần Chánh, từ hơn mười năm trở lại đây, Nhóm công tác do GS phụ trách đã và đang đầu tư không ít công sức và thời gian để nghiên cứu so sánh tìm ra những số đo của hàng cột nền, chiều cao của công trình từ kết quả khảo sát nền móng của phế tích, kết quả khai quật khảo cổ cùng những tư liệu về kiến trúc cổ Việt Nam trong mối quan hệ với kiến trúc Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và tài liệu lưu trữ về Việt Nam của người Pháp... Nên nhớ rằng vào đầu những năm 90, sau thành quả của dự án Ngọ Môn, không ít người muốn thừa thắng xông lênthực hiện ngay dự án phục hồi Điện Cần Chánh theo khuôn mẫu Điện Long An và trên cơ sở những dấu tích nền móng còn lại. Vì vậy, những thành tựu nghiên cứu hết sức cẩn trọng, bài bản của Nhóm Vaseda đã và đang đem lại cho chúng ta một bài học to lớn và hữu ích về khoa học baỏ tồn ở Huế nói riêng và Việt Nam nói chung.
Cho đến nay, tôi đã gặp Giáo sự Nakagava nhiều lần ở Huế, ở Hà Nội và Tokyo. Qua quá trình làm việc với Giáo sự và từ những mối quan hệ khác mà tôi được biết ông là một trong những giáo sư hàng đầu về lịch sử kiến trúc và bảo tồn di tích kiến trúc. Là nhà khoa học lớn nhưng ông sống rất bình dị, tận tình với bè bạn . Và, chính di sản văn hoá Huế là cầu nối để chúng tôi có được những người bạn quốc tế như ông.
Ghi lại tản mạn những kỷ niệm này tôi muốn khẳng định rằng, người và đất Huế nói chung, các di sản văn hoá Huế nói riêng, với tôi là rất gần guĩ và thân thuộc. Trong gần 50 năm công tác ở ngành bảo tồn, bảo tàng, có lẽ Huế là nơi tôi đến nhiều nhất, dành cho những hoạt động chuyên môn nhiều nhất. Nếu như trong tiềm thức của tôi từ thủa ấu thơ, Huế được coi như dinh luỹ cuối cùng của chế độ phong kiến thối nát, phản động thì dần dần, với tôi, Huế đã và đang là một trong những trung tâm văn hoá nghệ thuật lớn nhất ở nước ta. Huế mang trong mình những tài sản văn hoá vật thể và phi vật thể mà giá trị của chúng không thể được định lượng bằng những giá trị vật chất.
Nhưng mặt khác, lại phải khẳng đinh rằng, chính những công việc về Huế và có liên quan đến Huế đã và đang mang lại cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm hết sức quý giá, là cơ sở và điều kiện giúp tôi trưởng thành trong các hoạt động của mình.
Huế đã giúp tôi từng bước tiếp cận và thực hiện có hiệu quả những hoạt động UNESCO về di sản văn hoá. Chính do những hoạt động này mà tôi đã có dịp đi đến nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Úc, châu Phi và châu Mỹ, biết thêm được nhiều vùng dất khác nhau, nhiều cư dân với những diều kiện sinh hoạt và tập quán khác nhau, qua đó bổ sung thêm những hiểu biết của mình về sự phong phú và đa dạng của văn hoá nhân loại.
Thông qua các công việc cụ thể, đặc biệt là các cuộc hội nghị, hội thảo chuyên đề, các đợt thăm quan nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài...tôi đã học được nhiều điều ở các chuyên gia UNESCO về kiến thức chuyên môn và cả phương pháp làm việc. Những kiến thức và kinh nghiệm này là cơ sở quan trọng trong các hoạt động nhằm chuẩn bị và vận động để đưa các di sản văn hoá và thiên nhiên khác của Việt Nam trở thành di sản thế giới như Hạ Long, Mỹ Sơn, Hội An và Phong Nha- Kẻ Bàng. Đồng thời, là cơ sở cho các hoạt động thực tiễn nhằm đổi mới các hoạt động về bảo tồn và bảo tàng trong bối cảnh mới của tình hình mới.
Tôi còn nhớ, từ cuối tháng 3 năm 93, tôi biết sẽ có thêm đứa con thứ hai ngay hôm từ Huế ra Hà Nội cùng ông Henri Clere, chuyên gia ICOMOS vào thẩm định hồ sơ khoa học về Huế trước khi trình UNESCO chính thức xem xét công nhận Huế là Di sản thế giới.
Và hơn 9 tháng sau, cũng đúng vào lúc tôi đang ở Huế cùng đoàn làm phim của ACCU thì nhận được tin báo cháu đã chào đời. Thú thật là, lúc ấy vợ chồng tôi chỉ mong có con gái và chỉ chuẩn bị đặt tên cho con gái nên khi được hỏi ý kiến về việc đặt tên cho cháu, sau ít phút suy nghĩ, tôi quyết định lấy tên là Quốc Bảo. Lý do cơ bản là vì tôi đã và đang gắn bó với Huế, một vùng đất thực sự là địa linh đang hàm chứa một kho tàng di sản quý báu nhất, những bảo vật của quốc gia. Đồng thời, tôi nguyện sẽ gắn bó với sự nghiệp bảo tồn những di sản vô giá này của quốc gia dân tộc mà cứ mỗi lần đến Huế, tôi lại có thêm những hiểu biết mới, những khám phá mới về một vùng đất đặc biệt, không chỉ bởi những sự cuốn hút khiến chân đi chẳng đừng của những lần đến Huế.
T.Q.B