Điều khiến dư luận quan tâm là ông Chỉ đến lúc bổ nhiệm vẫn chưa có chứng chỉ giám định viên pháp y. Trong khi tại khoản 2, Điều 4, Nghị định 85/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về việc Quy định chi tiết và Biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp thể hiện rõ, Giám đốc, các Phó Giám đốc phụ trách chuyên môn về giám định phải là giám định viên tư pháp.
Như vậy đến nay, mặc dù ông Trần Quang Chỉ đã giữ chức Giám đốc Trung tâm Pháp y tỉnh Gia Lai, nhưng ông lại không được ký, đóng dấu các Kết luận giám định, thực sự “có chức, mà không có quyền”.
Trước dư luận và thông tin từ báo chí, thừa lệnh của Chủ tịch UBND tỉnh, Chánh văn phòng UBND tỉnh Gia Lai đã ký Văn bản chỉ đạo số 2969/UBND-NC về việc giao kiểm tra, xử lý Quyết định số 739/QĐ-SYT bổ nhiệm Giám đốc Trung tâm Pháp y khi chưa có giám định viên pháp y.
Cụ thể, văn bản nói rõ, sau khi báo chí đưa tin phản ánh liên quan đến nội dung bổ nhiệm Giám đốc Trung tâm pháp y chưa có chứng chỉ giám định viên pháp y tại Quyết định số 739/QĐ-SYT ngày 25/9/2023 của Sở Y tế về việc điều động, bổ nhiệm ông Trần Quang Chỉ giữ chức vụ Giám đốc Trung tâm Pháp y. Qua xem xét, UBND tỉnh chỉ đạo như sau:
Giao Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với Sở Y tế nghiên cứu Quyết định số 739/QĐ-SYT nêu trên; khẩn trương kiểm tra, hướng dẫn Sở Y tế xử lý Quyết định số 739/QĐ-SYT đã ban hành đảm bảo đúng theo quy định của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Liên quan đến sự việc này, Luật sư Ngô Thanh Quảng (Giám đốc Công ty Luật TNHH Hồng Phát, Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai), cho biết: “Theo quy định tại Điều 9 Luật Giám định tư pháp và Điều 4 Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013, thì Giám định viên tư pháp do Chủ tich UBND tỉnh bổ nhiệm và Giám đốc, các Phó Giám đốc phụ trách chuyên môn về giám định phải là giám định viên tư pháp.
Trong hoạt động chuyên môn về công tác giám định, thì các Kết luận giám định phải được Giám đốc, Phó Giám đốc trung tâm giám định ký tên và đóng dấu của Trung tâm, mới có giá trị pháp lý. Hoạt động giám định pháp y có liên quan và có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng.
“Thiết nghĩ, cơ quan có thẩm quyền cần nhanh chóng bổ sung, kiện toàn nhân sự, bộ máy tổ chức, để Trung tâm giám định pháp y tỉnh có thể thực hiện tốt công tác giám định mà không gây ách tắc, trở ngại cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và công dân”, Luật sư Quảng nhấn mạnh.
Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, tính từ lúc Sở Y tế điều động, bổ nhiệm ông Trần Quang Chỉ giữ chức Giám đốc Trung tâm Pháp y tỉnh Gia Lai đến nay, có hơn 25 hồ sơ đã được giám định viên pháp y giám định nhưng chưa được Giám đốc ký kết luận. Ngoài ra, trong mấy ngày trở lại đây, Trung tâm này cũng không tiếp nhận các hồ sơ đề nghị giám định. Sự việc này, có thực hiện đúng theo Điều 208 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015?.
Được biết trước đó, ngày 25-9-2023, ông Lý Minh Thái, Phó Giám đốc Sở Y tế Gia Lai đã ký Quyết định số 739/QĐ-SYT điều động, bổ nhiệm ông Trần Quang Chỉ (Bác sĩ chuyên khoa I Răng-Hàm-Mặt, nguyên Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Đức Cơ), làm Giám đốc Trung tâm Pháp y tỉnh. Ông Chỉ đến nay, chưa có giám định viên pháp y. Trao đổi với chúng tôi ông Lý Minh Thái xác định, vì nhu cầu công tác cán bộ, của ngành Y tế nên buộc phải có người đứng đầu để làm việc (lãnh đạo). Về tiêu chuẩn giám định viên thì sẽ nhanh chóng củng cố để ông Chỉ đủ điều kiện.
Như vậy, Quyết định số 739/QĐ-SYT ngày 25/9/2023 của Sở Y tế Gia Lai về việc điều động, bổ nhiệm một Bác sĩ chuyên khoa I, khi chưa có giám định viên pháp y là không đúng với các quy định của pháp luật. Vì trong khoản 2, Điều 4, Nghị định 85/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về việc Quy định chi tiết và Biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp thể hiện rõ, Giám đốc, các Phó Giám đốc phụ trách chuyên môn về giám định phải là giám định viên tư pháp.
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Điều 208. Thời hạn giám định 1. Thời hạn giám định đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định: a) Không quá 03 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 206 của Bộ luật này; b) Không quá 01 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 6 Điều 206 của Bộ luật này; c) Không quá 09 ngày đối với trường hợp quy định tại các khoản 2, 4 và 5 Điều 206 của Bộ luật này. 2. Thời hạn giám định đối với các trường hợp khác thực hiện theo quyết định trưng cầu giám định. 3. Trường hợp việc giám định không thể tiến hành trong thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì tổ chức, cá nhân tiến hành giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định... |