Ở quê, muỗi vo ve suốt đêm thành tiết mục hoà tấu bất tận, đã thành quen rồi, thậm chí không để ý đến nữa.
Ở Hà Nội, trường sỹ quan của tôi nằm giữa vùng toàn ao hồ, nhưng nhiều cá, nên muỗi đẻ xuống nước, bọ gậy thành thức ăn của cá hết, muỗi không có cơ hội sinh đàn đẻ lũ.
Nhưng từ ngày về Nhà máy A32, Quân chủng PK-KQ, những người ở tập thể chỉ là số nhỏ nhoi giữa mênh mông sân bay đầy cây cỏ rậm rạp, nơi đây chính là vương quốc của muỗi. Muỗi nhiều vô kể, con nào cũng to, béo mẫm.
Chẳng hiểu sao, ở nơi mà con người gầy còm lại có giống muỗi vừa to vừa béo mập đến thế. Không biết trên thế giới có công trình nghiên cứu nào dùng muỗi làm thực phẩm chưa? Ít ra là làm thức ăn nuôi cá chẳng hạn. Nếu có một công trình như vậy, hẳn chúng tôi sẽ có nguồn thực phẩm dồi dào, hẳn rằng bọn tôi đủ chất hơn, vì muỗi ở sân bay Đà Nẵng nhiều cơ man, con nào cũng mập ú.
Thời ấy, tôi vừa học ngoại ngữ tiếng Nga, vừa dịch tài liệu công nghệ, rồi viết thành phiếu công nghệ luôn, chẳng ai phê duyệt cả, cứ mang áp dụng tại chỗ. Anh chuyên gia Sergei Macurin dùng bản tiếng Nga, anh Đình, Giang, Học và tôi dùng bản tiếng Việt tôi dịch đêm hôm trước, thế mà máy bay vẫn ra đều đều. Trước đó, anh Hà Thiện, anh Hồ Quang Thái cũng dịch một số, nhưng tài liệu công nghệ cho bộ phận Thiết bị hàng không của tổ Hiệu chỉnh Bộ môn ở nhà máy, chủ yếu do tôi làm theo cách này.
Nhiều hôm dịch say sưa, đến khi đứng lên, choáng luôn, hàng chục con muỗi no căng không cất cánh được nữa, bò lổm ngổm trên bàn, dưới nền nhà. Ngay cả mặt và tay cũng đầy vết máu, vì thấy ngưa ngứa thì quẹt tay qua, làm vỡ những con muỗi đã hút máu căng phồng.
Sau này, tập hợp lại những bản dịch phiếu công nghệ “mì ăn liền” ấy, chúng tôi cũng được thanh toán khoản to phết. Tôi nhớ lần đầu, tôi được thanh toán năm 1984 là 104 đồng 8 hào rưỡi. Nên nhớ, lương trung uý khi ấy là 65 đồng, trừ tiền ăn, BHXH và những khoản gì đó, chỉ thực lĩnh được khoảng 25 đồng thôi.
Nghe nói thời ấy một chỉ vàng khi đó 200 đồng, thế mà tiền thanh toán tài liệu dịch, bọn tôi chỉ nhậu mấy bữa là sạch bách. Chẳng biết dưỡng chất mấy bữa nhậu ấy có đủ bù đắp lượng máu của tôi nuôi béo lũ muỗi sân bay Đà Nẵng không?
Hậu duệ lũ muỗi sân bay Đà Nẵng chắc giờ chết đói, vì bụi rậm đã hết sạch, nước tù cũng không, nhất là không có những kẻ điên khùng như chúng tôi, cởi trần dịch tài liệu thâu đêm để nuôi chúng nó nữa.
Nhớ mãi một thời, nhớ những con muỗi béo.
Theo Chuyện làng quê
Trương Thành Sơn
Link nội dung: //revcat.net/nhung-con-muoi-beo-a7827.html