Trong Truyện Kiều, có một đoạn mô tả sự kiện được coi như bước ngoặt trong đời nàng Thúy Kiều. Đó là khi gia đình Vương Ông gặp họa "Phải tên xưng xuất tại thằng bán tơ" đem lại, thì cha con Vương Ông - Vương Quan bị bắt đóng gông (Già giang một lão một trai); nhà cửa bị tàn phá (Rụng rời khung cửi tan tành gói may); của cải bị cướp bóc (Đồ tế nhuyễn của riêng tây/ Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham). Từ một tư gia tương đối khá giả (thường thường bậc trung) gia đình Thúy Kiều bỗng chốc rơi vào cảnh khuynh gia bại sản. Trước tai họa đó, nàng bắt buộc phải chọn một giải pháp tình thế vô cùng éo le, bi kịch: Hi sinh chữ Tình chọn chữ Hiếu ngõ hầu đem lại sự bình yên gia cảnh. Chấp nhận bán mình để lấy tiền chuộc cha và em, Thúy Kiều đã trở thành tấm gương tuyệt vời của lòng hiếu thảo.
Sau khi bắn tin chấp nhận điều này, lập tức có hai nhân vật xuất hiện: Bà mối lái và "người viễn khách" (tên Mã Giám Sinh) đến xem mặt, ngã giá để mua Kiều. Nguyễn Du đã mô tả tâm trạng u uất và vô cùng buồn tủi của nàng vào lúc "Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra":
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.
Hai câu thơ làm cho ta hình dung một sự tình: Nàng Kiều vừa đi từ trong buồng ra vừa liên tục khóc (với nước mắt rơi hàng hàng). Nhưng hai từ "thềm hoa" và "lệ hoa" được dùng ở đây với nghĩa gì?
Trước hết ta thấy, từ "hoa" trong Truyện Kiều là một từ xuất hiện với một tần số nhiều chưa từng thấy.
Hoa, tức bông hoa. chỉ "1. cơ quan sinh sản hữu tính của cây hạt kín, thường có màu sắc và hương thơm (hoa cải, hoa bưởi, hoa nhãn...); 2. cây trồng để lấy hoa làm cảnh (hoa hồng, hoa thược dược, hoa cẩm chướng,...), v.v." (Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2017). Nhưng trong Truyện Kiều, hoa được dùng chủ yếu để chỉ người phụ nữ đẹp, cụ thể ở đây là nàng Kiều.
Bởi có tới 76 trường hợp "hoa" được dùng hoán dụ với nghĩa chỉ khuôn mặt, dáng vẻ, dung nhan của Kiều: Nàng càng ủ dột nét hoa; Lời thề đâu đã phũ phàng với hoa; Xót nàng chút phận thuyền quyên/ Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn; Về đây nước trước bẻ hoa/ Vương tôn quý khách ắt là đua nhau; Sợ gan nát ngọc liều hoa; Hoa xuân đương nhụy ngày xuân còn dài; Từ nghe vườn mới thêm hoa/ Miệng nhà đã lắm tin nhà thì không; Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân, v.v. và v.v.
Cũng từ nghĩa này, "hoa" kết hợp với những thành tố khác tạo nên những tổ hợp mang nghĩa chuyển.
- hoa đèn, chỉ "ngọn đèn tỏa sáng": Đã hay chàng nặng vì tình/ Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru.
- hoa nguyệt, "hoa và trăng", giống như "nguyệt hoa", hai từ này chỉ "quan hệ nam nữ (thường là nghĩa không hay)": Đừng điều nguyệt nọ hoa kia/ Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai; Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.
- hoa quan, "mũ hoa" (mũ có trang trí bông hoa bằng vàng hay ngọc): Sẵn sàng phượng liễn loan nghi/ Hoa quan giấp giới hà y rỡ ràng.
- hoa râm, "hoa cây râm, có những sắc trắng lốm đốm": Những là đắp nhớ đổi sầu/ Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.
- hoa rơi, chỉ "người con gái đẹp bị lưu lạc": Nàng rằng: Chút phận hoa rơi/ Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
- hoa tàn, chỉ "người con gái đẹp phải trải qua nỗi đoạn trường, khổ ải, nhan sắc đã suy giảm": Hoa tàn mà lại thêm tươi/ Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
- kiệu hoa, kiệu trang điểm bằng hoa, chỉ “kiệu cô dâu ngồi trong lễ vu quy”: Kiệu hoa đâu đã đến ngoài/ Quản huyền đâu đã giục người sinh li.
- trướng hoa, "bức trướng thêu hoa", chỉ "buồng ở của phụ nữ": Kiều từ trở gót trướng hoa/ Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
- v.v.
Ngoài các từ ghép phái sinh trên, "hoa" còn xuất hiện trong một loạt thành ngữ khác: cỏ nội hoa tàn (nhan sắc người con gái đã phai tàn), hoa cười ngọc thốt (nụ cười tươi và tiếng nói trong của người con gái), hoa ghen thua thắm (người con gái rất đẹp, đến hoa cũng phải ghen), hoa rụng hương bay (người con gái đã qua đời), hoa thải hương thừa (người con gái không còn trinh tiết, bị vứt bỏ, khinh rẻ), hoa trôi bèo giạt (cảnh lênh đênh, trôi nổi của đời người con gái), hoa xuân đương nhụy (người con gái ở độ tuổi xuân xanh, đang đẹp), hoa xưa ong cũ (người con gái gặp lại người cũ, tình nhân cũ), liễu chán hoa chê (chỉ cảnh ăn chơi hết tầm, tới mức chẳng còn thiết gì nữa), nguyệt nọ hoa kia (quan hệ nam nữ linh tinh, không đứng đắn),...
Quay trở lại hai từ "thềm hoa" và "lệ hoa" nói ở đầu bài này. Thềm hoa, chỉ "thềm nhà có trồng hoa” (Đào Duy Anh còn cho rằng "hoặc là thêm từ "hoa" cho lời thêm đẹp"). Còn "lệ hoa", dùng để chỉ "nước mắt của người con gái đẹp". Trong câu thơ "Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng" thì "lệ hoa" chính là để tả những giọt nước mắt của Thúy Kiều.
Với tài nghệ của mình, Nguyễn Du đã đem lại những nét nghĩa vô cùng đặc sắc cho từ HOA trong Truyện Kiều.
Phạm Văn Tình
Link nội dung: //revcat.net/hoa-trong-truyen-kieu-a6437.html