Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ông mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ.
Tác giả Nguyễn Hữu Sơn cho biết, trải hai mươi năm theo nghiệp khoa cử, Nguyễn Khuyến từng đỗ đầu ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi Ðình, mà từ đây ông được gọi là "Tam nguyên Yên Ðổ". Trong hơn mười năm tham gia chính sự, ông từng làm việc ở Quốc sử quán và Bộ Hộ trong triều đình Huế; được bổ dụng chức Ðốc học, án sát, Bố chánh ở các tỉnh Thanh Hóa, Quảng Ngãi, rồi ông kiên quyết cáo hưu ở tuổi năm mươi (1884) và mất tại quê nhà...
Về sáng tác, Nguyễn Khuyến sử dụng cả chữ Hán và chữ Nôm, làm thơ Ðường luật và các thể cổ phong, lục bát, hát nói, văn sách, văn tế, câu đối, ký và tự dịch thơ của chính mình từ Hán sang Nôm. Số lượng tác phẩm của ông đến nay đã sưu tập tới hơn 800 bài, bước đầu đã công bố được hơn một nửa. Trên phương diện hình thức thể loại, về cơ bản Nguyễn Khuyến vẫn trung thành với các thể thơ Ðường luật và chưa có những cách tân nào thật đặc biệt.
Tuy nhiên, ông lại tạo nên sự khác biệt và đạt tới đỉnh cao trong nghệ thuật biểu hiện tiếng nói trữ tình, tiếng nói của bậc đại khoa bình dân, bậc đại quan nhập cuộc đời thường, trở thành nhà thơ thứ nhất của "quê hương làng cảnh Việt Nam" (Xuân Diệu).
Từ điển Văn học Việt Nam - từ nguồn gốc đến hết thế kỷ 19 (Nhà xuất bản Văn học, 2018) cho biết, ba bài thơ Nôm về mùa thu của Nguyễn Khuyến gồm Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm rất tinh tế về quan sát và cảm xúc; đặc biệt thanh nhã và điêu luyện về ngôn ngữ. Đây được xem là những bài thơ chuẩn mực thể thơ Đường luật bằng tiếng Việt.
BA BÀI THƠ MÙA THU
-NGUYỄN KHUYẾN
Bài thơ: Thu điếu
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bài thơ: Thu ẩm
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy.
Độ năm ba chén đã say nhè.
Bài thơ: Thu vịnh
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào (*).
(*) Đào Tiềm (nhà thơ nổi tiếng ở Trung Quốc)
Tiểu Vũ (tổng hợp)
Link nội dung: //revcat.net/nhung-van-tho-dep-cua-nguyen-khuyen-trong-ba-bai-tho-thu-a5859.html