Báo cáo của Liên Hiệp Quốc cung cấp thông tin về sự phát triển của chính phủ số trên phạm vi toàn cầu, khu vực và quốc gia; giúp cho mỗi quốc gia biết vị trí của mình trong bức tranh Chính phủ số trên thế giới, nắm bắt kịp thời các xu thế để có chiến lược đúng đắn phát triển Chính phủ số trong tương lai.
Báo cáo EGDI 2024 cho thấy sự phát triển chính phủ số trên toàn thế giới, ứng dụng công nghệ số để nâng cao chất lượng dịch vụ công và tăng cường sự tham gia của người dân trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt trong giai đoạn phục hồi sau Đại dịch Covid 19. Báo cáo EGDI 2024 đã giới thiệu Khung mô hình chính phủ số mới (Digital Government Model Framework) để các quốc gia tham khảo nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số để phát triển bền vững. Khung mô hình chính phủ số của Liên Hợp Quốc bao gồm 06 động lực của chính phủ số như: Lãnh đạo số; Tập trung vào dữ liệu; Danh tính số hợp pháp; Tham gia điện tử hiệu quả; gowin99 số và Hạ tầng số. Ngoài ra, Báo cáo EGDI 2024 cũng cung cấp thông tin về vai trò của Trí tuệ nhân tạo (AI) đối với quản trị của khu vực công.
Trong bảng xếp hạng năm 2024, Việt Nam có vị trí thứ 71 trong 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, tăng 15 bậc so với năm 2022. Với kết quả này, Việt Nam lần đầu tiên được xếp vào nhóm EGDI ở mức Rất Cao và vươn lên vị trí xếp hạng cao nhất kể từ khi bắt đầu tham gia đánh giá EGDI của Liên Hợp Quốc năm 2003.
Năm |
Vị trí Việt Nam trong xếp hạng EGDI |
Giá trị EGDI của Việt Nam |
2024 |
71 |
0.7709 |
2022 |
86 |
0.6787 |
2020 |
86 |
0.6667 |
2018 |
88 |
0.5931 |
2016 |
89 |
0.5142 |
2014 |
99 |
0.4704 |
2012 |
83 |
0.5217 |
2010 |
90 |
0.4454 |
2008 |
91 |
0.4558 |
2005 |
105 |
0.3640 |
2004 |
112 |
0.3378 |
2003 |
97 |
0.3573 |
Về giá trị, Chỉ số EGDI của Việt Nam năm 2024 đạt 0.7709 điểm, được xếp vào nhóm các nước có EGDI ở mức Rất Cao (có 39,4% các quốc gia được xếp ở nhóm này) và cao hơn so với Chỉ số EGDI trung bình của thế giới (0.6382), của khu vực Châu Á (0.6990), cũng như của khu vực Đông Nam Á (0.6928).
* EGDI được chia làm 04 mức (Rất cao: Chỉ số lớn hơn 0.75; Cao: Chỉ số từ 0.5 đến 0.75; Trung bình: Chỉ số từ 0.25 đến 0.5; Thấp: Nhỏ hơn 0.25).
Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đã vượt Brunei để vươn lên vị trí thứ 5 trong 11 nước (tăng 01 bậc so với năm 2022); 04 nước có vị trí cao hơn Việt Nam là Singapore, Thái Lan, Malaysia và Indonesia. Đáng chú ý là Singapore tăng 9 bậc và vươn lên xếp thứ 3 trên toàn thế giới; Philippines tăng 16 bậc; Việt Nam tăng 15 bậc; Indonesia tăng 13 bậc; Đông Timor giảm 12 bậc.
Ngoài ra, Liên Hợp Quốc đánh giá Việt Nam cùng với 03 quốc gia Indonesia, Philippines, Brunei ở khu vực Đông Nam Á có giá trị EGDI chuyển từ nhóm Cao lên nhóm Rất Cao. Trong đó, Liên Hợp Quốc đánh giá cao Việt Nam về những nỗ lực trong việc cải tiến chất lượng dịch vụ công trực tuyến. So với 55 quốc gia trong nhóm có thu nhập trung bình thấp, Việt Nam là một trong năm quốc gia (04 quốc gia khác là Ukraine; Mongolia; Uzbekistan và Philippines) có EGDI ở mức Rất Cao.
TT |
Quốc gia |
Xếp hạng năm 2024 |
Xếp hạng năm 2022 |
1 |
Singapore |
3 |
12 |
2 |
Thái Lan |
52 |
55 |
3 |
Malaysia |
57 |
53 |
4 |
Indonesia |
64 |
77 |
5 |
Việt Nam |
71 |
86 |
6 |
Philippines |
73 |
89 |
7 |
Brunei |
75 |
68 |
8 |
Campuchia |
120 |
127 |
9 |
Myanmar |
138 |
134 |
10 |
Lào |
152 |
159 |
11 |
Đông Timor |
159 |
147 |
Về các chỉ số thành phần, cũng như các năm trước, Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (EGDI) được tổng hợp từ 3 chỉ số chính: Chỉ số Hạ tầng viễn thông (Telecommunication Infrastructure Index - TII); Chỉ số Nguồn nhân lực (Human Capital Index - HCI); Chỉ số Dịch vụ trực tuyến (Online Service Index - OSI).
Vị trí xếp hạng về các chỉ số chính trong EDGI của Việt Nam năm 2024 đều có sự tăng trưởng về giá trị và xếp hạng, đặc biệt là về xếp hạng HCI và giá trị TII. Cụ thể: HCI đạt 0.7267, xếp thứ 79/193, tăng 36 bậc so với năm 2022; TII đạt 0.8780, xếp thứ 67/193, tăng 07 bậc so với năm 2022; OSI đạt 0.7081, xếp thứ 75/193, tăng 01 bậc so với năm 2022. Về giá trị, EGDI tăng trưởng 13.6%, trong đó TII là chỉ số chính tăng trưởng mạnh nhất so với năm 2022 với 25.9%; tiếp đến là OSI với 9.2%; HCI tăng trưởng 5.3%. Trong 3 chỉ số chính, TII của Việt Nam được xếp ở mức Rất Cao; OSI và HCI được xếp ở mức Cao.
Ngoài ra, Liên Hợp Quốc còn đánh giá 03 chỉ số phụ bao gồm: Tham gia điện tử (EPI); Dịch vụ trực tuyến địa phương (LOSI, bắt đầu đánh giá, công bố năm 2020); Dữ liệu mở của Chính phủ (OGDI, bắt đầu đánh giá, công bố năm 2020). Trong đó, OGDI đạt 0.7436, xếp thứ 77/193, tăng 10 bậc so với năm 2022; LOSI (Liên Hợp Quốc lựa chọn đánh giá TP. Hồ Chí Minh) đạt 0.6354, xếp hạng 53/152 thành phố (năm 2022 xếp 54/146); EPI đạt 0.6027, xếp hạng 72/193, giữ nguyên so với năm 2022.
Các chỉ số của Việt Nam |
Xếp hạng Năm 2024 |
Xếp hạng Năm 2022 |
Tăng/Giảm thứ hạng so với năm 2022 |
Tăng trưởng về giá trị so với năm 2022 |
EGDI |
71 |
86 |
Tăng 15 bậc |
Tăng trưởng 13,6% |
HCI |
79 |
115 |
Tăng 36 bậc |
Tăng trưởng 5,3% |
TII |
67 |
74 |
Tăng 07 bậc |
Tăng trưởng 25,9% |
OSI |
75 |
76 |
Tăng 01 bậc |
Tăng trưởng 9,2% |
OGDI |
77 |
87 |
Tăng 10 bậc |
Tăng trưởng 15,8% |
LOSI của TP. HCM |
53/152 |
54/146 |
Tăng 01 bậc |
Tăng trưởng 1,2% |
EPI |
72 |
72 |
Giữ nguyên |
Tăng trưởng 12,8% |
Với kết quả xếp hạng vượt bậc này, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu đặt ra năm 2024 về xếp hạng chính phủ điện tử tăng ít nhất 05 bậc tại Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024; đồng thời thể hiện sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự vào cuộc, nỗ lực của cơ quan nhà nước các cấp đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận.
Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực để triển khai chuyển đổi số quốc gia nhằm phát triển kinh tế - gowin99 , trong đó thực hiện các giải pháp để tiếp tục nâng cao thứ hạng Chỉ số chính phủ điện tử, chính phủ số của Việt Nam theo đánh giá của Liên Hợp Quốc; từ đó cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.