Vào năm 1545, sau khi Thái sư Hưng Quốc công Nguyễn Kim bị kẻ sát nhân ám hại, thi hài ông được giữ bí mật đưa đến an táng tại núi Thiên Tôn đất Gia Miêu ngoại để “che mắt” tránh sự dò xét, trả thù.
Tương truyền, mộ cụ thuỷ Tổ Nguyễn Kim được “thiên táng” rất linh thiêng, và câu truyện dân gian về ông ở đồi Thiên Tôn đến nay vẫn còn lưu truyền.
Năm 1803, Gia Long ở ngôi đã cho xây gần đó một miếu ba gian hai chái thờ Nguyễn Kim và để thờ vọng Nguyễn Hoàng (1558 - 1613). Miếu được đặt tên là Nguyên miếu (sau còn gọi là miếu Triệu Tường). Cạnh đó còn có miếu thờ Trừng Quốc Công (thân phụ Nguyễn Kim).
Năm 1808, vua Gia Long đặt tên cho khu mộ Nguyễn Kim là lăng Trường Nguyên (dòng suối vĩnh cửu), lăng này không có dấu vết rõ ràng nên chỉ xây lên một nền vuông để bái yết và cúng tế.
Năm 1822, vua Minh Mạng cho dựng ở lăng Trường Nguyên một tấm bia khắc ghi bài minh và ngự chế, nội dung như sau: “Đất lớn chúa thiêng sinh ra Triệu Tổ/Vun đắp cương thường nên rạng thánh võ/Nghĩa động quỷ thần công truyền vũ trụ/Cõi trần rời bỏ lăng ở bái trang/Non nước bao bọc sấm mắt tùng xanh/Khí thiêng nhóm họp đời đời xưng vinh/Mệnh trời đã giúp con cháu tinh anh/Võ công dựng nước bèn tìm gốc nguồn/Tuy tôn dựng miếu lăng gọi Trường Nguyên/Tân tuy bắc tuần đến đây dựng lại/Trông ngắm non sông nhớ đến gốc cõi/Khắc chữ vào bia lưu ức vạn tài”.
Khu di tích Lăng miếu Triệu Tường xưa được xây dựng trên một cánh đồng bằng phẳng dưới chân núi Triệu Tường thuộc làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, nằm cạnh đường 217b đi về phía Tây huyện Thạch Thành.
Toàn bộ kiến trúc của khu vực Lăng miếu Triệu Tường ngày nay, chúng ta biết được chỉ dựa vào tài liệu của các nguồn sử cũ “Làng Quý Hương, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung có tiếng là cái nôi của triều đại đương thời. Các miếu tháp thờ cúng các vị tiên vương được xây dựng ở đây, có tường gạch bao quanh, tường được giữ phòng bằng luỹ, làm như một toà thành nhỏ gọi là Tôn Thanh hay Triệu Tường” (sách “Niên giám Đông Dương” năm 1901).
Còn “Lăng Trường Nguyên của Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế bản triều ở núi Triệu Tường huyện Tống Sơn, Tĩnh Hoàng hậu cũng hợp táng ở đây. Năm Gia Long thứ 5 dâng tên là Trường Nguyên, năm Minh Mệnh thứ ba ngự chế đề bài minh và năm Thiệu Trị thứ nhất ngự chế đề bài thơ khắc vào bia, dựng đình ở phía tả lăng” (sách Đại Nam nhất thống chí).
Chu vi Thành Triệu Tường 182 trượng, bao quanh thành là hào nước, có cầu gạch bắc qua, với hai lớp luỹ bao bọc (luỹ ngoài xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 16 - năm 1835) có bốn cửa Đông - Tây - Nam - Bắc, cửa Nam có một vọng lâu, luỹ trong được xây dựng năm 1834. Cửa Nam là một cổng Tam Quan và phía sau có hồ bán nguyệt. Lăng phía trong gồm 3 khu vực là: Nguyên miếu (thờ cha Nguyễn Kim), khu vực bên Tây là trại lính và nhà ở của các gia nhân coi lăng (đây là khu vực phụ) có hai viên quan thuộc dòng tôn thất được cử ra trông coi lăng gọi là Chánh sứ và Phó sứ có thêm hai thuộc quan nữa giúp việc một diện sứ và một miếu thừa.
Khu vực Nguyên miếu trong thành Triệu Tường là khu trung tâm “được xây dựng năm Gia Long thứ 2 (1804) và trùng tu năm Minh Mệnh thứ nhất (1820). Miếu chính và miếu trước đều 3 gian, 2 chái. Gian chính giữa thờ Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế, gian bên tả thờ Thái Tổ - Gia Dụ Hoàng Đế (Nguyễn Hoàng), đều hướng về Nam, hàng năm gặp tiết ngũ hương và các tiết khác đều tế theo lệ các miếu ở kinh, quan tỉnh khâm mạng làm lễ”. Trang trí và sắp đặt trong Nguyên miếu như sau: “Trước các bài vị có kê hai cái sập chạm rồng.
Bên trái và bên phải là hai rương quần áo thờ. Mỗi lần vua Nguyễn về Nguyên miếu đều cúng tế theo đúng mọi nghi lễ quy định. Người ta trải lên hức sập trong cùng một chiếc chiếu hoa. Trên bàn thờ phía trong những ngày cúng kỵ bằng các mâm quả, các cây đèn thiếp, trên bàn thờ phía ngoài bày ngũ sắc bằng thiếp, những lọ hoa, hai con hạc gỗ sơn son thiếp vàng, hai khay vàng giấy để sau khi lễ xong thì đem đốt.
Khoảng giữa hai bàn thờ là những cái bàn để dâng bò, dê, lợn cúng tế. Khi nhà vua đến cúng bái thì trải một cái chiếu trước bàn thờ ngài” (sách “Thanh Hoá đẹp như tranh” của H.Le Bretsin).
Miếu Trừng Quốc Công Nguyễn Hoằng Dụ (cha của Nguyễn Kim) ở phía tả Nguyên miếu; miếu chính và miếu trước đều 3 gian, gian chính giữa thờ Trừng Quốc Công hướng về Nam, gian bên tả thờ Lỵ Nhân Công Nguyễn Văn Lang (thân phụ Nguyễn Hoằng Dụ) hướng về Tây, hằng năm các tiết đều theo lệ thờ ở Nguyên miếu (Sách Đại Nam nhất thống chí - 1970: 254). Miếu này cũng dựng nhà năm Gia Long thứ ba (1804) và trùng tu năm Minh Mệnh thứ nhất (1820).
Như vậy, qua nguồn sử liệu cũ ta biết được đồ án thiết kế công trình lăng miếu Triệu Tường về quy mô kiến trúc, trình độ kỹ thuật xây dựng. Vua Gia Long cho xây dựng công trình này ngoài ý nghĩa là nơi thờ tự và ghi nhớ công ơn, thể hiện đạo hiếu đối với Triệu Tổ nhà Nguyễn mà còn là tặng vật cho quê hương, nguồn cội.
Kiến trúc Lăng miếu Triệu Tường mang phong cách kiến trúc Lăng tẩm nhà Nguyễn sau này, nên đậm yếu tố cung đình. Đã hơn hai thế kỷ trôi qua, trong dòng chảy không ngừng của cuộc sống và những biến động của lịch sử, “vật đổi sao dời”, khu Lăng miếu Triệu Tường không còn nguyên vẹn như xưa mà chỉ còn là phế tích…
Dù sao thì sự có mặt của Lăng miếu Triệu Tường xưa vẫn là niềm tự hào về một di sản kiến trúc nghệ thuật đậm nét dấu ấn văn hoá vật chất của một vương triều.
Kể từ khi Nguyễn Hoàng mang gươm đi mở đất phương Nam và xây dựng cơ nghiệp ở Đàng Trong thành một quốc gia riêng, và triều đại nhà Tây Sơn có công xoá bỏ sự phân chia ở Đàng Trong - Đàng Ngoài cho đến khi vương triều Nguyễn được thành lập, năm 1802 Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long, đã kế thừa thành quả trên mở ra thuận lợi để củng cố thống nhất đất nước từ Mục Nam quan đến mũi Cà Mau.
Từ hình ảnh về một vùng đất Gia Miêu ngoại trang luôn gợi lên trong ông (vua Gia Long) tình cảm sâu nặng về cội nguồn, quê hương.
Sau khi lên ngôi được 2 năm ông đã ban tặng cho Gia Miêu làm đất quý hương (cao quý) và huyện Tống Sơn là quý huyện (quê hương nhà Nguyễn), nơi phát tích một dòng tộc đã sản sinh triều đại nhà Nguyễn sau này.
Với những giá trị đặc biệt của di tích (nghiên cứu, lịch sử, văn hoá, gowin99 , kiến trúc nghệ thuật…), năm 2007 khu Lăng miếu Triệu Tường, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá đã được Bộ Văn hoá, Thông tin (nay là Bộ VH, TT&DL) xếp hạng cấp quốc gia.
Ngoài Lăng miếu Triệu Tường (gồm Lăng Trường Nguyên Thiên tôn và Miếu Triệu Tường) còn có Đền thờ Đức Triệu Tổ, Nhà thờ họ Nguyễn Hữu, Đình làng Gia Miêu cũng được xếp hạng di tích quốc gia.
Nói về Di tích quốc gia Lăng miếu Triệu Tường, ông Nguyên Văn Lê, Đảng uỷ viên - Phó Chủ tịch UBND xã Hà Long cho biết: Để nhằm bảo tồn trùng tu tôn tạo phát huy giá trị, năm 2010, Khu di tích Lăng miếu Triệu Tường đã được quy hoạch và thực hiện xây dựng theo Quyết định số 2948/QĐ-UBTH ngày 11/9/2012 của UBND tỉnh Thanh Hoá.
Theo đó, UBND tỉnh phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công và dự toán hạng mục phục hồi, tôn tạo Nguyên miếu và Trừng Quốc Công miếu giai đoạn 1 vào ngày 26/3/2013.
Đến năm 2018, UBND tỉnh Thanh Hoá tiếp tục phê duyệt điều chỉnh quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích Lăng miếu Triệu Tường (Quyết định số 3199/QĐ-UBND).
Lê Như Cương
Link nội dung: //revcat.net/ve-noi-phat-tich-mot-vuong-trieu-a26284.html