Kỳ 11.
Ngày hôm sau thám mã lại về báo:
-Bẩm Quốc Công Tiết Chế, đạo tiên phong thuỷ quân Thát Đát khoảng 30 thuyền chiến do tướng Lưu Khuê chỉ huy đang tiến về sông Giá thăm dò.
Quốc Công ra lệnh:
-Truyền lệnh ta, phải đánh tan đạo quân tiên phong để chúng khiếp sợ, mặt khác phải hư trương thanh thế để đánh lừa chúng rằng toàn bộ binh lực của ta đang tập trung ở sông Giá.
Thám mã đi rồi, Trần Hưng Đạo có vẻ lo lắng. Yết Kiêu hiểu sự lo lắng của Quốc Công. Nếu như không bịt được sông Giá, thủy binh địch kiên quyết tiến theo hướng đó ra biển thì có lẽ chúng chạy thoát dù có tổn thất. Trận địa cọc Bạch Đằng mà ta dày công xây dựng thành ra vô dụng. Không bị gíáng một đòn chí mạng, quân Nguyên- Mông có lẽ chưa táng đảm kinh hồn thì chúng còn có khả năng sang xâm lược lần thứ tư. Đại Việt lại khó tránh một trận chiến tranh đau thương nữa.
Yết Kiêu, Dã Tượng, Cao Mang, Nguyễn Địa Lô cùng chia sẻ lo âu với chủ tướng. Yết Kiêu bước lên thưa:
-Dạ bẩm Quốc Công, đã biết rằng có quân mai phục và hư binh ở sông Giá, nhưng để góp phần làm cho địch khiếp sợ, tùy tướng có một cách.
Hưng Đạo Vương hỏi:
-Tướng quân có cách gì?
-Tùy tướng lặn xuống sông Giá đục thuyền địch. Vừa thấy lực lượng mai phục của ta hùng mạnh, thuyền lại bị chìm hàng loạt chúng tất khiếp sợ mà bàn với Ô Mã Nhi đi theo đường sông Bạch Đằng.
Trần Hưng Đạo nói:
-Ngày ở Lục đầu Giang, tướng quân đục được chiến thuyền là vì nó đậu tại chỗ, nay chúng đang vận động thì đục thế nào được?
-Dạ bẩm Quốc Công, chắc là tùy tướng đục thủng được cả thuyền đang chạy.
Trần Hưng Đạo nói:
-Lệnh cho tướng quân Yết Kiêu tham gia mặt trận sông Giá nhưng đừng để chúng bắt được. Trận Bạch Đằng sắp tới rất cần người giỏi thủy chiến như tướng quân.
-Đa tạ Quốc Công Tiết chế.
Từ tổng hành dinh Trúc Động không xa sông Giá, Yết Kiêu chèo thuyền nhỏ trong đêm ra bờ sông. Chàng trông thấy 30 chiến thuyền tiên phong của quân Nguyên Mông căng cờ xí, đông đặc quân lính cung tên giáo mác sáng loáng trên mỗi chiến thuyền. Chiến thuyền quân Nguyên-Mông đi chậm rải thăm dò. Yết Kiêu buộc dây thừng có đục, dùi đục và con dao ngắn vào lưng, mình trần bận khố màu nâu. Đêm cuối xuân sang hè, nước sông mát rượi. Toàn bộ miền quê vùng Đông Bắc chìm trong bóng đêm đen thẳm mênh mông mịt mờ. Những vì sao nhấp nhánh trên màn trời nhung đen, gió từ biển thổi vào nghe vi vu xào xạc. Xa xa phía tây sông Kinh Thầy hơn 300 chiến thuyền địch đang dừng lại trên sông như một dãy núi khổng lồ dài dằng dặc vàng vọt ánh đèn. Yết Kiêu đoán đoàn chiến thuyền địch đang chờ kết quả của đội chiến thuyền tiên Phong rồi mới quyết định tháo chạy theo hướng nào. Yết Kiêu hiểu số phận của đoàn chiến thuyền xâm lược đã ở vào thế rất nguy nan. Sau lưng chúng là hàng trăm thuyền chiến của hai vua Trần uy hiếp, trước mặt là một nghìn chiến thuyền của Trần Hưng Đạo đang chờ đón chúng. Việc chúng bị tiêu diệt chỉ còn tính từng ngày. Nghĩ tới đó Yết Kiêu phấn chấn nhào xuống đáy sông phi như mũi tên bắn về chiếc thuyền đi đầu của đội tiên phong địch. Lưỡi đục bằng thép bí gia truyền của chàng xuyên vào lớp vỏ gỗ của thuyền như xuyên vào đất mềm. Bây giờ thì không cần nút giẻ để sau đó rút ra cho cùng chìm đồng loạt như ở Lục Đầu Giang mà ở đây chàng cho chìm từng chiếc một. Mỗi chiến thuyền chàng đục lỗ to như miệng chiếc rổ con. Gần sáng, chàng đã đục khoảng 10 chiếc trong số 30 thuyền tiên phong của địch.
Lại nói 30 chiến thuyền tiên phong thăm dò đường do Lưu Khuê chỉ huy tiến sâu vào sông Giá. Bỗng nhiên Lưu Khuê trông thấy khắp ba bề bốn bên trong các dãy núi đá từng cột khói bốc cao mù mịt, chiêng trống vang lừng, tinh kỳ phấp phới, tiếng người, ngựa chạy như núi lở đất rung. Trên mặt nước, Lưu Khuê trông thấy dày đặc những mo cau gói cơm, những lá bánh chưng sau khi quân đội ăn ném xuống sông kết thành từng bè trôi lừng lững. Rồi những chiến thuyền xuất hiện dày đặc, nhanh như chớp bắn tên gây chết chóc cho quân Nguyên-Mông rồi lẩn trốn. Quân Nguyên-Mông kinh hoàng hoa mắt bởi tiếng trống đinh tai nhức óc, bởi khói lửa ngút trời hai bên bờ sông. Nhìn số mo cau gói cơm và lá bánh chưng như bè mảng trôi trên sông, Lưu Khuê ước tính quân Đại Việt mai phục ở đây không dưới 10 vạn người. Lưu Khuê đang mải quan sát và suy nghĩ thì bỗng lính kêu thất thanh. Lưu Khuê nhìn ra phía trước thì lần lượt khoảng 10 chiến thuyền quân Nguyên chìm dần xuống sông mà không rõ nguyên nhân. Đội hình tiên phong đã hoàn toàn rối loạn và khiếp sợ. Bản thân Lưu Khuê chinh chiến nhiều năm trên nhiều chiến trường mà cũng choáng váng. Y vội vã ra lệnh cho đội tiên phong quay trở lại sông Kinh Thầy, nơi đại đội binh thuyền Ô Mã Nhi đang nóng lòng chờ đợi tin tức.
Lưu Khuê nói với Ô Mã Nhi:
-Sông Giá đã bị quân Đại Việt mai phục, ước tính hàng nghìn chiến thuyền và khoảng 10 vạn bộ binh, thủy binh. Chiến thuyền của ta đang đi bỗng nhiên cứ lần lượt chìm xuống. Lối đánh này thật đáng sợ.
Ô Mã Nhi ngạc Nhiên:
-Sao chiến thuyền bỗng dưng bị chìm?
Phàn Tiếp nói:
-Lại chính là Yết Kiêu từng đục chiến thuyền ta ở Lục Đầu Giang.
Ô Mã Nhi gầm lên:
-Chỉ tiếc hôm bắt được chưa xé xác nó ra thì nó đã chạy thoát.
Tích Lệ Cơ, một thân vương dòng dõi nhà Hốt Tất Liệt run run nói:
-Vậy bây giờ rút theo đường nào? Hãy quyết định nhanh lên!.
Ô Mã Nhi nói:
-Rút theo đường sông Bạch Đằng!
Phàn Tiếp nói:
-Một người dùng binh tài giỏi như Trần Hưng Đạo không thể không bố trí bãi cọc trên cửa sông Bạch Đằng để chặn chiến thuyền ta như Ngô Vương và Lê Đại Hành, tổ tiên của ông ta đã làm.
Tích Lệ Cơ lo lắng hỏi:
-Như vậy phải làm thế nào? Hôm trước ở Vạn Kiếp ta đã bảo các ông bỏ chiến thuyền rút tất cả theo đường bộ các ông không nghe. Ta là đại quí tộc của đế quốc Nguyên-Mông, bị giết hay bị bắt thì nhục nhã quá.
Phàn Tiếp nói:
-Xin Vương Gia chớ quá lo. Nước triều thường dâng lên vào buổi chiều. Khi nước triều dâng thường phủ hết cọc, thuyền có thể vượt qua được. Chúng ta phải hành quân thần tốc, chiều mai ra được cửa sông Bạch Đằng có thể thoát ra biển được. Tướng quân Ô Mã Nhi lưu ý nếu quá giờ tí đêm mai khi thủy triều rút mà chúng ta không ra được là chết hết.
Ô Mã Nhi kiên quyết hùng hổ:
-Hảo, hảo. Chiều mai sẽ tới được cửa sông Bạch Đằng.
Rồi ngay đêm đó Ô Mã Nhi ra lệnh hành quân. Hơn 300 chiến thuyền chở 4 vạn thủy binh khua mái chèo như điên loạn, rẽ sóng nước sông Kinh Thầy và tiến vào sông Đá Bạc, một đoạn sông chính của sông Bạch Đằng. Thời gian bây giờ trở thành sống chết đối với thủy quân Nguyên. Ô Mã Nhi ra lệnh cho chỉ huy các thuyền sẵn sàng dùng roi vọt đốc thúc quân chèo thuyền chèo cho nhanh chóng.
Được thám mã báo về việc thuyền chiến quân Nguyên –Mông sau khi bị nghi binh ta đánh lừa và bị đắm nhiều chiến thuyền do Yết Kiêu đục đang nhanh chóng tiến ra cửa sông Bạch Đằng, Trần Hưng Đạo dời Tổng hành dinh ra gần bến Phà Rừng để chỉ đạo trận đánh cuối cùng có tính chất quyết định. Vấn đề sống còn của chiến dịch là phải ngăn chặn tốc độ hành quân của thủy binh địch làm sao cho sang giờ tuất đêm 8-4, khi thủy triều rút xuống thuyền quân Nguyên-Mông mới tới được cửa sông. Vương ra lệnh cho các cánh quân liên tục tập kích vào hai bên sườn chiến thuyền quân địch. Vương còn ra lệnh dàn thủy binh ngay mũi hành quân của địch cách bãi cọc 10 dặm về phía tây đề phòng tập kích không hiệu quả thì trận tuyến hàng ngang này kiên quyết ngăn thuyền địch bằng mọi gía cho đến giờ tuất. Trong những ngày này vương hầu như không ngủ, ăn uống rất qua loa. Người chỉ tập trung trí tuệ điều hành một chiến trường rộng lớn.
( còn nữa)
CVL
PGS TS Cao Văn Liên
Link nội dung: //revcat.net/thuy-hai-chien-viet-nam-truyen-lich-su-ky-11-a15314.html