Thuyền rớ được cơ cấu gồm hai phần thuyền và rớ gắn liền với nhau:
Thuyền đóng toàn bằng gỗ kiền kiền có hình thù khác biệt với ghe thường. Mũi thuyền sâu và phình ra, đuôi thuyền nhỏ, cạn, huớt hỏng khỏi mặt nước. Hơn một phần ba trước mũi đặt khung cốt của giàng rớ, gần hai phần ba ở đầu lái là mui thuyền. Mui thuyền rất vững chắc, tiện nghi như một ngôi nhà. Mui là nơi sinh hoạt, ăn ở, chứa đựng toàn bộ gia sản của đại gia đình thuyền rớ. Bếp nấu ăn đặt ngoài mui. Nhìn về phía mũi, bếp nằm bên tay phải, sát với mui thuyền. Mỗi thuyền rớ còn có hai chiếc ghe phụ, sử dụng trong lúc hành nghề và đi lại phục vụ sinh hoạt đời sống. Thuyền rớ không chạy bằng buồm, không chèo mà chỉ chống bằng sào để di chuyển trên sông nước.
Giàn rớ gồm hai phần là khung cốt và rớ.
Khung cốt được cấu tạo như một khối chóp có ba mặt và đáy. Rớ cất lên, đỉnh khung cốt đè sát mặt sàn; rớ thả xuống thì đỉnh khung cốt ở vị trí cao nhất. Đỉnh khung cốt có buộc ba cục đá nặng gần một tạ, làm vai trò đối trọng với rớ ở phía trước, giống như đối trọng của một cần cẩu. Khung cốt rất chắc chắn cũng được làm bằng 6 cây gỗ kiền kiền. Ba cây gỗ hợp thành ba mặt hình chóp, đó là cánh tay đòn bẩy phía sau. Ba cây gỗ thì hai gọi là “cây đồ” có kích cỡ: diện 20, hậu 12 phân tây, dài hơn 3 mét và một nhỏ hơn gọi là đòn giông. Khi rớ cất lên, hai “cây đồ” nằm sát mặt sàn, “đòn giông” nằm nghiêng với mặt sàn 45 độ. Đáy của khối chóp là cái khung tam giác được cấu tạo bởi ba khúc gỗ nhỏ và mỏng hơn “cây đồ”. Mặt phẳng tam giác ấy nằm vuông góc với trục dọc của thuyền. Đáy tam giác gọi là “cây đòn gánh”, nằm gác ngang thuyền. Đòn gánh gắn khung cốt của rớ với thuyền. Hai đầu đòn gánh là hai cái khớp nối giữa khung cốt và thuyền. Hai khớp là điểm tựa của “đòn bẩy rớ”, khung cốt phía sau và chiếc rớ phía trước là hai cánh tay của đòn bẩy. Tùy theo sự điều khiển trọng lực nghiêng về phía trước mũi hay phía sau thuyền mà giàn rớ có thể cất lên thả xuống.
Chiếc rớ gồm gọng và lưới. Gọng là bốn cây tre dài 6 sải (9 mét). Tre được cột thật chắc với khung cốt ở điểm “Ngưỡng Thiên”. Đó là điểm cao nhất của giàng rớ khi cất lên. Bốn cây tre chĩa ngọn ra tứ phía, trên đầu ngọn tre buộc viền kéo căng lưới thành hình vuông, mỗi chiều dài 4 mét. Mắt lưới rớ dày từ 2 đến 3 ly. Khi rớ cất thì lưới thòng như cái lòng chảo vuông vức.
Mỗi thuyền rớ sử dụng 5 lao động. Ba lao động chính chống thuyền di chuyển từ nơi này sang nơi khác, đây là khâu lao động nặng nề nhất. Ba lao động đó cũng là người ở trên thuyền lớn điều khiển thả và cất rớ. Hai lao động phụ thì bơi hai chiếc ghe nhỏ. Khi đánh bắt cá thì hai ghe này từ xa vừa bơi tới giàn rớ vừa dùng chân đạp nhịp nhàng hai cây tre đặt dưới lòng thuyền, phát thành tiếng đều đặn như một bài nhạc vang động khắp một vùng sông nước. Nếu không đạp hai cây tre va chạm vào đà ghe để phát ra tiếng động thì hai thuyền con kéo hai sợi dây có gắn vỏ nghêu thả chìm sát đáy sông bọc quanh khu vực đánh bắt. Tiếng động trên mặt sông, tiếng va chạm leng keng và ánh sáng phản chiếu của đồng nghêu dưới lòng sông đuổi cá chạy dồn vào rớ. Lúc hai ghe nhỏ tiến sát khu vực thả rớ, hai người điều khiển từ phía rớ bước nhanh trên “cây đồ”, về phía cục đá. Sức nặng của người và đá cộng lại ở đỉnh “khung cốt”, trọng lực giàn rớ đổ về phía sau, bẫy chiếc rớ trước mũi thuyền cất lên khỏi mặt nước. Thế là vác rớ đã được thực hiện, người thứ ba trên thuyền dùng vợt có cán dài xúc cá.
Thuyền rớ hành nghề chủ yếu vào những đêm không có trăng. Bảy giờ tối đánh bắt đến 12 giờ đêm, nghỉ vài tiếng rồi tiếp tục thả, cất mãi đến 5 giờ sáng. Mỗi đêm đánh bắt được từ 30 Kg đến 50 Kg cá các loại, nào là: móm, hanh, trảnh, diếc, tho, dìa, sặc, mú, cồi, đối, ngạnh, úc, bò, sơn, tôm, tép, cua, rạm... đều được tất.
Sở dĩ nói rớ thuyền là nghề đặc trưng nhất trên sông nước Quảng Nam, vì cả gia đình, thậm chí là tam đại đồng đường, đều sống trên một chiếc thuyền rớ. Nhiều làng dọc bờ sông Trường Giang hay hạ lưu của các dòng sông Đất Quảng có vạn chài. Thuyền rớ là những hộ chủ chốt nhất của Vạn, nhưng đó chỉ là nơi neo đậu thuyền mà thôi. Người “thuyền rớ” không có nhà trên bờ. Có việc gì cần thiết mới lên bờ, như họp hội, đi giỗ chạp, đi đám cưới, đi chợ, trẻ con đến trường...
Mỗi vạn chài ven sông bao gồm nhiều hộ nghề khác nhau như rớ quay, nò tôm, lưới bén, rạo chươm, lưới quét, te... Cùng với những hộ thuyền rớ, họ xây dựng ngôi đền chung để thờ Bà Thủy Tổ (Hà Bá). Lễ hội chung của Vạn ghe diễn ra trên bờ. Bên cạnh đó, mỗi thuyền rớ đều có bàn thờ Tổ Tiên đặt ở vị trí trang trọng nhất. Đám giỗ, chạp mả, đám cưới, ma chay, ăn tết đều trên thuyền. Có việc lớn của tộc họ, gia đình, các thuyền rớ dùng ván gác ngang kẹp thuyền sát nhau, che rạp, trang trí cờ xí, hoa văn, tạo mặt bằng hành lễ, sinh hoạt hội hè ngay trên sông nước.
Mỗi thuyền rớ còn có bàn thờ Ngưỡng Thiên. Đây là Tổ nghề được tôn sùng xuất phát từ đặc điểm chuyên biệt nghề nghiệp. Ngưỡng Thiên vừa là một điểm vật chất cụ thể ở nơi tiếp giáp của rớ và khung cốt vừa là tên của Tổ nghề. Dây buộc bốn cây tre với khung cốt cũng được gọi là dây Ngưỡng Thiên. Dây này tuyệt đối phải chắc chắn. Sau một đêm hành nghề, sáng ra ngư dân phải kiểm tra độ chắc chắn của dây buộc Ngưỡng Thiên. Nếu sơ suất, trong lúc hành nghề dây Ngưỡng Thiên bị đứt thì từ trên cao khung cốt và cục đá nặng cả tạ đập xuống gãy then, vỡ thuyền, chết người... Không cẩn thận, không coi việc kiểm tra dây Ngưỡng Thiên là thói quen nghề nghiệp tuyệt đối thì tai nạn rất dễ xảy ra. Sự tôn sùng Ngưỡng Thiên, thường xuyên thắp hương trên bàn thờ Tổ nghề là để người thuyền rớ luôn cẩn thận coi ngó điểm Ngưỡng Thiên.
Đặc điểm cuộc sống trên sông nước đã hình thành trong cộng đồng người thuyền rớ một số tập tục, thói quen, nếp sống khác biệt với người dân ở trên bờ. Vì thế, ngày xưa có từ gọi riêng là “dân thuyền rớ” cũng như dân nông, dân biển, dân núi, dân làm muối, dân ghe bầu... vậy.
Cách đây trên bốn mươi năm, nghề thuyền rớ rất thịnh hành trên Trường Giang và vùng nước lợ mênh mông cửa Đại, An Hòa. Ngày ấy, trong những đêm tối trời, mặt nước hạ lưu của các dòng sông xứ Quảng luôn vang động tiếng gõ nhịp khi lơi khi nhặt, tiếng kẽo kẹt của giàn rớ cất lên thả xuống, tiếng hú, tiếng hô, tiếng hò khoan, tiếng đùa dí dỏm của người dân thuyền rớ. Và, sông cùng với người thao thức suốt đêm thâu.
Thời nay, nhu cầu vật chất, nhu cầu văn hóa, nhu cầu hòa nhập sâu về mọi mặt vào cộng đồng hiện đại tăng cao. Chiếc thuyền rớ như một cái khung bó hẹp cuộc sống, không đáp ứng được nhu cầu sống hiện đại của lớp trẻ. Mặt khác tài nguyên trên các dòng sông có hạn, nghề thuyền rớ không thể làm ra nhiều của cải để làm giàu được. Nó chỉ là nghề phù hợp với cái thời tự túc tự cấp. Gia đình thuyền rớ lại thường đông con, với mức chi tiêu hiện đại thì nghề này không thể nuôi con cái nổi chứ có đâu mà dư dật. Một điều nữa, hiện nay người đánh cá trên sông bằng rất nhiều cách tăng lên, môi trường ô nhiễm, cá ít đi không đủ điều kiện để tồn tại một nghề đánh đánh cá sông chuyên nghiệp như thuyền rớ.
Vì không thể làm đủ ăn và đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống, nghề thuyền rớ trên sông nước Quảng Nam biến mất là lẽ đương nhiên của quy luật phát triển. Tuy nhiên một thời rất dài lâu, thuyền rớ đã tồn tại trên sông nước Quảng Nam góp phần rất quan trọng, nếu không nói là chủ yếu hình thành gowin99 sông nước. Nghề thuyền rớ mất nhưng gowin99 sông nước, tinh thần nghề nghiệp vẫn tồn tại trong các thế hệ con cháu của họ. Lễ hội và các di sản gowin99 khác được hình thành từ nghề thuyền rớ sẽ không mất trong bản sắc gowin99 Quảng Nam nói riêng và gowin99 Việt nói chung.
Nói như vậy không có nghĩa là tự nhiên mà tinh thần nghề nghiệp, những gíá trị gowin99 phi vật thể do nghề thuyền rớ góp phần tạo ra sẽ mãi tồn tại mà nhất thiết phải có tác động bảo tồn của các thế hệ. Hiện nay có rất nhiều người ba bốn mươi tuổi không biết, không hề thấy thuyền rớ. Cứ như vậy, vài thế hệ nữa thì giá trị gowin99 phi vật thể của một nghề sông nước đặc trưng nhất sẽ mất hút theo dòng chảy thời gian.
Vì vậy, cần phải có sự nghiên cứu bảo tồn giá trị gowin99 nghề thuyền rớ ngang tầm với các nghề truyền thống khác. Chẳng hạn như trưng bày mô hình thuyền rớ ở những cơ sở bảo tồn văn hoá; trong địa chí, nghề thuyền rớ cần được đề cập đúng mức; trong công trình nghiên cứu về nghề sông nước, nghề thuyền rớ phải được đề cập trước tiên... Thấy người mà ngẫm đến ta. Xem các bộ phim tuyền thống của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản tôi thật thán phục: Sao người nước họ bảo tồn gowin99 giỏi vậy. Ta còn phải học tập ở họ rất nhiều về lĩnh vực này...
Phạm Thông
Link nội dung: //revcat.net/thuyen-ro-nghe-dac-trung-van-hoa-song-nuoc-a13091.html