Có số dân khoảng trên 10 vạn người (xếp thứ 19/54 trong danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam), dân tộc Hơre sống chủ yếu ở vùng triền núi thấp, ven thung lũng phía tây tỉnh Quảng Ngãi, xung quanh lưu các con sông Hơre, Rơvá, Dakrin. Số ít còn lại sống ở vùng Komplông (Kon Tum), An Lão (Bình Định).
Tập quán sống định cư (chỉ dời làng khi có hoả hoạn, dịch bệnh), rào vườn theo từng hộ gia đình, hệ thống tổ chức làng (plây) khá quy củ, lấy việc canh tác lúa nước làm nguồn sống chủ yếu, có kinh nghiệm lâu đời ngăn đập bổi đưa nước vào ruộng, việc trao đổi hàng hoá, nông thổ sản, tiếp xúc thường xuyên với người Kinh,…là những dấu hiệu cho thấy có khả năng tộc Hơre vốn sinh sống ở những vùng thấp hơn, nhưng sau đó di chuyển dần lên vùng cao phía tây.
Theo nông lịch truyền thống còn mang tính sơ khai của đồng bào Hơre, một mùa nương rẫy là chu kỳ thời gian tương ứng với một năm theo lịch mặt trời, tháng đầu năm- đầu mùa rơi vào khoảng tháng 2, tháng 3 theo âm lịch của người Kinh. Lúc nầy khí hậu miền núi đã trở nên ấm áp, ruộng lúa đã được làm cỏ đợt đầu tiên. Trên nương, trên rẫy cây cối nẩy lộc, đâm chồi. Đây chính là khoảng thời gian diễn ra lễ hội h’tend. Tiếng Hơre, h’tend có nghĩa là hội vui chơi đầu năm, đầu mùa. Lễ hội được tổ chức khá chu đáo, gắn với nhiều lễ thức và sinh hoạt cộng đồng phong phú, độc đáo.. Bói quẻ giò gà và xin keo âm dương là những nghi thức để chọn ngày vào hội. Tuỳ theo quyết định của chủ làng (prak plây), mỗi plây chọn cho mình 3 ngày ăn tết. Sự quyết định của chủ làng căn cứ trên những đoán định về quẻ bói của padâu (thầy cúng), kết quả bàn bạc của hội đồng già làng. Ngày ăn tết sau đó được thông báo cho các gia đình trong làng được biết.
Đón hội h’tend, người Hơre chuẩn bị khá chu đáo, từ lễ vật, thức ăn đồ uống ( giã gạo, hái củi, ủ rượu cà rỏ, hái lá dong chuẩn bị làm bánh, ...) đến dọn dẹp nhà cửa, nguồn nước, đường làng, dựng cây nêu, lau chùi, chỉnh sửa chiêng cồng, nhạc cụ, sửa soạn áo váy. Những công việc nầy chiếm khá nhiều thời gian, nhưng từ người già đến trẻ con đều rất vui tươi, hồ hởi. Không khí chuẩn bị đón tết h’tend ở các plây của người Hơre rất giống với các làng người Kinh trước đây trong dịp sắp đến tết Nguyên đán. Điều khác nhau là, nếu người Kinh ăn tết 3 ngày đầu năm thống nhất theo âm lịch, thì ở người Hơre mỗi làng chọn cho mình 3 ngày tết riêng, giao động trong kỳ giữa mùa xuân. Vì vậy, vào thời gian nầy, khắp vùng cư trú của đồng bào Hơre, ngày vui kết thúc ở làng nầy lại bắt đầu nơi làng khác, không khí hội hè, chiêng trống, hát ca kéo dài hết ngày nọ sang ngay kia, rộn rã núi rừng.
Ngày tết thứ nhất mở đầu rất sớm, khi con chim vơ linh chưa kịp gọi mặt trời, sao mai còn lấp lánh trên đầu núi. Nghi lễ trước tiên gọi là h’vang h’nim (dọn nhà, đuổi tà ma, điều xấu; rước điều tốt, niềm vui). Tiếp đến là các lễ cũng kla hoang, chem h’rai, quai xirô mà nội dung chủ yếu là rước thần linh, tổ tiên về ăn tết cùng người sống; cầu mong được mùa, no đủ; cầu mong thần linh ban cho niềm tin chống lại kẻ xấu, điều ác, có sức mạnh đối phó với tai hoạ thiên nhiên. Các nghi thức nầy đều được tổ chức theo từng gia đình trong tình cảm thương yêu, ruột thịt, ấm áp quanh bếp lửa hồng.
Thời gian còn lại của ngày tết thứ nhất mọi người lo gói bánh nếp, làm thịt lợn gà, nấu nướng các thức ăn để chuẩn bị cho ngày hôm sau. Bánh nếp của đồng bào Hơre chế biến từ gạo nếp, nhân đỗ, bọc lá bên ngoài, có hình dạng giống với bánh tét của người Kinh và người Mường nhưng thon nhỏ và thường gói bọc bên ngoài bằng lá dong. Những nhà khá giả nấu đến hai ba nồi bánh, sửa soạn hàng chục ché rượu cần để chờ làm vui lòng khách viếng thăm, san sẻ cho những gia đình nghèo khó. Người Hơre quan niệm thức ăn đồ uống trong ngày tết cũng giống như con muông, con thú bẫy được trên rừng là của thần linh ban tặng cho cả cộng đồng, mọi người cùng được hưởng.
Lễ cúng trâu (ta h’reo capơ) ngay trước cửa chuồng vào tảng sáng là khởi đầu của ngày tết thứ 2. Cũng như các tộc người đã biết canh tác lúa nước, người Hơre rất quý con trâu, vì đối với họ, ngoài giá trị của cải, con trâu là vật thân thiết giúp họ kéo gỗ, cày bừa. Lễ vật tết trâu là một con gà luộc, trầu cau và rượu cúng. Khi lễ vật đã được dâng lên dàn cúng đặt ở khoảng sân trước chuồng trâu, người chủ nhà khấn nguyện thần linh phù hộ cho con trâu được mạnh khoẻ, biết nghe lời người, ăn cho ngoan, cày cho giỏi. Ông ta cũng đến bên con trâu, vuốt tay lên đầu, vỗ nhẹ trên lưng, bỏ vào máng ăn năm cỏ để tỏ tình thân thiện với con vật gần gủi của mình. Lễ ta h’reo capơ kết thúc, người ta dọn cơm lam, rượu cà rỏ, thịt lợn béo để mời khách cùng cả nhà ăn uống, no say. Bên ché rượu, mọi người tâm tình, trò chuyện, kể h’mon theo nhịp trống, hát calêu, ca choi… Con trai trổ tài đánh chiêng, chơi đàn krâu, b’rót, thi bắn nỏ, phóng lao, đánh vật, leo núi, múa giáo, múa gươm… Con gái thì nhảy múa, khoe vòng kiềng và những bộ váy thổ cẩm tự mình dệt lấy; mời rượu cần, rồi hát ca choi đối đáp với chàng trai mà mình thích. Cuộc vui kéo dài cho đến sáng hôm sau.
Ngày tết thứ 3, ngày cuối cùng, gọi là ôkroh. Nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ, chiếu hoa giải lên sàn, ché rượu ngon đặt ở giữa để đón khách đến thăm. Chủ nhà và khách chúc nhau những lời thật đẹp: “Cái ốm bỏ đi, làm gì được nấy”, “Người khoẻ, thóc đầy”, chúc người già “sống lâu như cây Kơ nia”, chúc con trai “lấy vợ tóc dài”, chúc con gái “lấy chồng làm ruộng giỏi”, chúc con trẻ “lớn mau như măng, cao hơn cha mẹ”…
Trước đây, hội vui ôkroh (phần cuối của tết h’tend) có thể kéo dài đến mười ngày, nửa tháng, tốn nhiều của cải, có phần lãng phí thời gian. Hiện nay, đồng bào chỉ ăn tết trong 3 ngày. Tuy vậy, không khí sôi nổi vui tươi khắp núi rừng H’re vẫn kéo dài suốt tháng trời, vì trong khung thời gian đó, mỗi làng chọn cho mình một thời điểm riêng để tổ chức h’tend, năm sau không trùng năm trước, làng nọ chẳng giống làng kia.
Lễ hội h’tend của đồng bào H’re diễn ra muộn hơn so với tết Nguyên Đán của người Kinh và các lễ hội đầu năm của những dân tộc ít người anh em sinh sống ở vùng lân cận như người Xơ Đăng, người Cor, người Ê đê. Vậy thì tại sao bạn không chọn dịp nầy về với người H’re vui hội h’tend. Về đây để nghe tiếng chiêng ba dìu dặt, nghe câu hát kalêu, ca choi tình tứ mặn nồng, cùng vít cần rượu cà rỏ đến mềm môi. Biết đâu trong men xuân ngây ngất lại chẳng gặp một đôi mắt Hơre đen lay láy đăm đắm nhìn mình. Đôi mắt níu người xa ở lại với h’tend.
LHK
Lê Hồng Khánh
Link nội dung: //revcat.net/htend-tet-dau-mua-cua-nguoi-hore-a10194.html